Giáo xứ Vinh Hương

Hạnh Các Thánh - Tháng 11

Thứ năm - 01/11/2012 10:42
Hạnh Các Thánh - Tháng 11

Ngày 1 tháng 11

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

Hôm nay Hội thánh mầng kính tất cả các thánh nam nữ đang được Chúa thưởng hưởng phúc trên trời.

Có 3 lý do khiến Hội thánh lập ra ngày lễ nầy:

- Vì các thánh quá nhiều không thể mầng mỗi vị một ngày riêng, như lời sách Khải Huyền của Thánh Gio-an viết: “Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, mọi nước, mọi dân (Kh. 5,9).

- Vì không phải hết mỗi vị thánh đều được phong thánh; có những người cũng sống lành chết thánh; nhưng chưa được Hội thánh tôn phong.

- Nhất là vì có vô số các thánh không được ai biết đến, số nầy tăng thêm hằng ngày trên trời.

Thế nên cần có một ngày lễ chung để chúng ta mầng kính hết các thánh nam nữ.

Chúng ta hãy nghe thánh Bê-na-đô viện phụ trả lời tại sao chúng ta ca ngợi và tôn vinh các thánh hôm nay:

“Chúng ta long trọng cử hành ngày lễ hôm nay để làm gì?... Thú thật trong dịp lễ nầy, tôi thấy một niềm khát vọng bừng cháy lên trong tôi. Quả vậy, niềm khát vọng đầu tiên mà việc kính nhớ các thánh khơi dậy trong chúng ta là làm sao chúng ta được vui hưởng trong cộng đoàn hạnh phúc với các ngài, và đáng được nên những người đồng hương và bạn hữu với các linh hồn thánh thiện, được hợp đoàn cùng các thánh tổ phụ, các thánh tiên tri, các thánh tông đồ, được gia nhập vào đạo binh các thánh tử đạo, với đoàn thể các thánh chủ chăn, các thánh trinh nữ, nói tắt là được hợp đoàn cùng toàn thể các thánh. Cộng đoàn Hội thánh của các vị tiên phong ấy đang chờ chúng ta mà chúng ta vẫn còn hờ hững ! Các thánh khao khát chúng ta mà chúng ta vẫn coi thường, các người công chính trông đợi chúng ta mà chúng ta vẫn làm ngơ ?...
“Khát vọng thứ hai mà việc kính nhớ các thánh làm bừng cháy lên trong tâm hồn chúng ta là mong được thấy Đức Kitô , là sự sống của chúng ta tỏ tường như các ngài đang thấy, và mong cho chính chúng ta cũng được tỏ hiện với Người trong vinh quang. Trong lúc chờ đợi, Người vẫn tỏ hiện cho chúng ta, nhưng không phải trong vinh quang đời đời của Người, mà là như Người đã chịu nạn vì chúng ta. Người tỏ ra là đầu chúng ta, nhưng nay chưa được đội triều thiên vinh quang, mà chỉ đội mũ gai để đền bù tội lỗi chúng ta. Thật là tủi nhục khi có chi thể muốn sống dễ dãi dưới một cái đầu chịu đội mũ gai như vậy…”

“Vì thế chúng ta hãy đam mê ham muốn cái vinh quang ấy một cách tuyệt vời và vững vàng. Nhưng để có quyền mong đợi vinh quang đó, cũng như được khao khát một nhân đức như thế, chúng ta phải ân cần ước mong được sự cầu bàu của các thánh, để sự gì chúng ta không đủ khả năng đạt được thì Chúa ban cho chúng ta nhờ lời chuyển cầu của các ngài”

* Quyết tâm
Hằng ngày cầu xin Chúa cho sống đạo đức thánh thiện theo gương các thánh, và nhờ các thánh cầu thay nguyện giúp, cho ngày sau được về trời hưởng phước với các ngài.

* Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con mầng kính toàn thể các thánh trên trời.

Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay. Chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong.
Chúng con cầu xin…
 

* THÁNH GIÊ-RÔ-MI-MÔ VỌNG (LIÊM),

VA-LEN-TI-NÔ VINH VÀ PHÊ-RÔ BÌNH

Giám Mục và Linh Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Ngày 01 tháng 11 năm 1861, ba chứng nhân Chúa Kitô được phúc lãnh triều thiên tử đạo. Đó là Đức Cha Giê-rô-mi-mô Vọng, Đức Cha Va-len-ti-nô Vinh và Cha Phê-rô Bình. Cả ba đều là giáo sĩ thừa sai dòng Đa-minh, người nước Tây-ban-nha.

* * *
Đức Cha Giê-rô-mi-mô Vọng sinh ngày 30 tháng 09 năm 1800, trong một gia đình nghèo nhưng rất đạo đức. Ngay từ nhỏ, ngài đã có ý muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì nhà nghèo, phải đợi đến năm 19 tuổi mới được gia nhập dòng Đa-minh tại Va-len-ci-a.

Năm 1824, ngài tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn đông, được Bề trên gởi sang Phi-luật-tân tiếp tục học làm Linh mục. Năm sau ngài lãnh chức Linh mục và đến Bắc Việt ngày 02 tháng 05 năm 1829, Ngài được Đức Cha Y vui mầng đón tiếp và đặt tên là Vọng, vì ngài đến làm thỏa mãn ước vọng của Đức Cha, từ lâu mong ước có thêm người giúp giảng đạo. Cả địa phận Đông Đàng Ngoài lúc đó chỉ có ba vị thừa sai là Đức Cha Y, Đức Cha Minh và cha chính Hiền, cả ba vị đều già yếu bệnh hoạn.

Sau vài tháng học tiếng Việt, cha Vọng bắt đầu lăn xả vào công cuộc truyền giáo. Ngài làm việc bất kể ngày đêm, không ngừng thăm viếng ủy lạo tín hữu, giảng đạo rửa tội cho người lương. Có thể nói tất cả cuộc sống của ngài là truyền giáo: truyền giáo bằng lời nói, truyền giáo bằng việc làm, bằng gương sáng đời sống…

Nhưng chưa được bao lâu, bão tố bách hại đã tràn về địa phận Đông Đàng Ngoài. Đó là năm 1838, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ bắt đạo khốc liệt trên toàn quốc.

Cả hai Đức Cha và cha chính giáo phận đã chịu tử đạo, nhiều Linh mục, tu sĩ, giáo dân đã đổ máu vì đức tin. Cha Vọng bị ghi vào sổ truy lùng gắt gao của nhà vua. Vua hứa sẽ thưởng số tiền rất lớn là 10 ngàn quan cho kẻ nào bắt được cha.

Dù vậy, cha vẫn không sợ chết, vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Chúa và vì các linh hồn, vẫn lén lút đi lại an ủi khích lệ giáo dân và ban các bí tích cho họ.

Đầu năm 1841, Tòa Thánh đặt cha làm Giám mục thay thế cho các Đức Cha Y và Minh. Và ngày 25 tháng 04, Đức Cha Liên đã lén phong chức Giám mục cho Cha tại Phúc Nhạc. Từ đó, vị tân Giám mục đổi tên là Liêm, thay cho tên Vọng đã bị nhà vua treo giá cả vạn quan. Công việc đầu tiên của Đức Cha là lo cho có nhiều người cộng tác truyền giáo. Ngài chọn thêm Giám mục phó và truyền chức Linh mục cho các thầy người bản xứ. Nhờ đó, việc giảng đạo ngày càng phát triển, cả địa phận bừng lên một sức sống mới…

Nhưng ngày 21 tháng 10 năm 1861, đang lúc Đức Cha với thầy Giu-se Nguyễn Duy Khang ở tại Thọ Đức thì bị phát giác, và bị bắt giải về Hải Dương.

* * *

Đức Cha Va-len-ti-nô Vinh sinh ngày 14 tháng tư, năm 1827, trong một gia đình đạo đức, nhưng rất nghèo khổ.

Năm 12 tuổi, nhân được nghe các cha Dòng Đa-minh kể chuyện các Linh mục thừa sai giảng đạo và tử đạo tại Việt Nam, ngài ước ao được làm Linh mục truyền giáo như thế. Nhưng vì nhà nghèo, ngài phải đợi đến năm 18 tuổi mới được một Linh mục giúp cho vào chủng viện. Sau 06 năm học hành tu luyện, ngài được Đức Cha phong chức Linh mục và chọn làm cha linh hướng Đại chủng viện.

Nhưng ngài vẫn luôn ước ao đi giảng đạo ở Việt Nam , nên sau một thời gian làm linh hướng, ngài đã trình lên Đức Cha ước nguyện đó và được chấp thuận. Ngày 30 tháng 03 năm 1858, ngài đã đến Việt Nam , trình diện với Đức Cha Xuyên tại Kiên Lao.

Lúc đó, cơn bắt đạo đang thời kỳ dữ dội. Ngài phải ẩn trốn vừa để học tiếng vừa làm việc tông đồ. Ngài lấy tên Việt Nam là Vinh. Lúc đó Đức Cha Xuyên thấy trước ngài có thể bị bắt, nên dùng quyền Tòa Thánh ban, chọn cha Vinh làm Giám mục phó có quyền kế vị. Lễ tấn phong cử hành âm thầm tại nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường, vào đêm 13 rạng ngày 14 tháng 06 năm 1858.

Đúng như dự đoán, sau khi phong chức Đức Cha Vinh chưa được một tháng thì Đức Cha Xuyên bị bắt, và bị xử lăng trì ngày 28 tháng 07 năm 1858. Từ đó một mình Đức Cha Vinh phải lãnh trách nhiệm toàn địa phận Trung, với trên 150 ngàn giáo hữu, giữa cơn bách hại dữ dằn ác liệt. Nhiều lần ngài than thở:

- Đức Cha Xuyên khả kính đã để lại cho tôi một gánh quá nặng. Tôi phải còng lưng gánh lấy mà rất sợ, sợ đổ vỡ nửa đường !...

Dù vậy, ngài vẫn hết lòng trông cậy Chúa, và kêu xin Đức Mẹ thương giúp. Vì quan quân lùng bắt hằng ngày, ngài phải ẩn trốn làm việc dưới hầm kín. Nơi đây, ngài điều hành giáo phận bằng thư từ. Ngài luôn viết thơ khuyên bảo khích lệ các Linh mục và giáo hữu trong các xứ đạo. Ngoài ra, ngài còn huấn luyện một số chủng sinh, để có người thay thế cho các Linh mục chết vì đạo.

Ròng rã gần ba năm trời ở dưới hầm, ngài phải chịu nhiều nỗi khổ cực: khổ vì hầm chật hẹp, ngột ngạt, thiếu thốn, nhất là cơn bách hại ngày càng gia tăng, nhiều Linh mục tử đạo, biết bao giáo hữu chết vì đức tin. Tháng 08 năm 1861, vua Tự Đức lại ban hành chiếu chỉ PHÂN SÁP; cơn bắt đạo càng ác liệt hơn. Đức Cha phải cùng với cha An-ma-tô Bình đi thuyền trốn xuống Hải Dương, nhưng dọc đường thì bị bắt…

* * *
Cha Phê-rô An-ma-tô Bình sinh ngày 01 tháng 11 năm 1831. Được Chúa thương kêu gọi giúp việc giảng đạo, năm 15 tuổi cậu đã xin vào chủng viện tu học làm Linh mục. Trong thời gian ở đây, cậu thường nghe tin tức về công cuộc truyền giáo của các cha Dòng Đa-minh tại Viễn Đông, nên cậu rất ước muốn đi loan báo Tin mừng ở những nơi đó. Vì thế, cậu xin gia nhập Dòng Đa-minh; ngày 25 tháng 09 năm 1847, cậu được nhận tu phục và năm sau thì tuyên khấn.

Năm 1849, thầy An-ma-tô được gởi sang Phi-luật-tân tiếp tục học thần học. Hằng ngày thầy cần mẫn học hành, tập rèn nhân đức, siêng năng cầu nguyện. Lòng thầy lúc nào cũng nghĩ đến việc đem Chúa đến cho những người ở nơi xa. Sau năm năm chuẩn bị, thầy được thụ phong Linh mục, và ngày 04 tháng 08 năm 1858, vị tân Linh mục nhiệt tâm truyền giáo nầy đã đến Việt Nam, tại địa phận Đông Đàng Ngoài.

Được đến nơi truyền giáo như lòng mong ước, cha hết sức vui mầng phấn khởi. Nguyện đem hết tài lực Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn. Cha lấy tên Việt Nam là Bình. Công việc trước tiên cha phải làm là học tiếng và phong tục tập quán của người bản xứ. Sau đó, cha được bề trên bổ nhiệm đi giúp xứ Thiết Nhan. Ngày đêm cha tận tụy lo cho đàn chiên, giảng dạy đạo lý, ban hành Bí tích, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân và người nghèo khó, đặc biệt cha đến với người lương, loan truyền đạo Chúa cho họ, dạy cho họ biết Chúa là Thiên Chúa cao cả mà mọi người phải kính mến tôn thờ.

Nhưng từ năm 1857, cơn bắt đạo ngày càng dữ dội. Cha phải trốn tránh rày đây mai đó. Nhiều ngày cha phải ẩn trú trong hầm, ban đêm mới lén lút đi làm việc tông đồ. Nhưng vì sức khỏe kém, cha thường bị bệnh luôn. Dù vậy, cha cũng cố gắng hết sức lo cho đàn chiên. Tháng 08 năm 1861, do chiếu chỉ PHÂN SÁP của vua Tự Đức, cuộc bách hại trở nên khốc liệt, cha với Đức Cha Vinh phải xuống thuyền đi ẩn trốn. Nhưng ngày 25 tháng 10 năm 1861, hai vị đã bị bắt.

* * *

Thế là cả ba vị thừa sai dòng Đa-minh người Tây-ban-nha là Đức Cha Vọng (Liêm), Đức Cha Vinh và cha Bình đã bị bắt, bị nhốt trong cũi, bị tra tấn hành hạ khổ sở vì đức tin. Nhưng các ngài vẫn cương quyết trung thành theo Chúa, sẵn sàng hy sinh chịu khổ để làm chứng cho Chúa, nên cả ba đều bị xử trảm tại Hải Dương ngày 01 tháng 11 năm 1861.

Ngày 20 tháng 05 năm 1906, Đức Thánh Cha Pi-ô 10 phong ba vị lên Chân phước, và Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 suy tôn Hiển thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988.

* Quyết tâm
Nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, và sẵn sàng chịu khổ chịu chết để làm chứng đạo Chúa là đạo thật, theo gương các thánh Giê-rô-mi-mô Vọng, Va-len-ti-nô Vinh và Phê-rô Bình tử đạo.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 2 tháng 11

CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI

Hôm qua Hội thánh hướng lòng trí chúng ta lên trời, chiêm ngưỡng vinh quang các thánh nam nữ đang hưởng phước bên Chúa, để bao lâu còn sống trên trần gian, nỗ lực sống đạo đức thánh thiện và hằng ngày xin các thánh cầu thay nguyện giúp hầu ngày sau được về thiên đàng hưởng mặt Chúa.

Hôm nay Hội thánh mời gọi chúng ta nhìn xuống luyện ngục, ngắm xem những linh hồn còn phải đau khổ đền tội, để dâng lời cầu nguyện và việc lành phước đức chúng ta làm hằng ngày, cầu xin Chúa tha phần phạt cho họ, hầu mau về hưởng phước với các thánh.

Cả hai ngày lễ nầy nhắc bảo chúng ta tín đìều Các Thánh Thông Công: những người còn sống ở thế gian, các thánh trên trời và các linh hồn ở luyện ngục đều thông công cùng nhau, trong một Hội thánh duy nhất của Chúa Kitô. Tất cả đều là anh em với nhau trong đại gia đình nhân loại, được Thiên Chúa là Cha hiền lành nhân ái hằng thương yêu bảo vệ chăm sóc. Họ thông hiệp với nhau trong đức tin, trong đức ái, trong đời sống Bí tích và trong lời cầu nguyện hằng ngày.

Đức tin dạy cho chúng ta biết: giữa trời và đất có một cõi trung gian là luyện ngục, nơi thanh luyện thanh tẩy những linh hồn chưa hoàn toàn trong sạch trước khi được hưởng nhan thánh Chúa, vì Chúa là Đấng tuyệt đối thanh sạch thánh thiện, chỉ những linh hồn nào hoàn hảo thanh sạch mới đáng được sống với Người. Trong luyện ngục hiện giờ chắc chắn còn nhiều linh hồn đang đền tội, đang được thanh tẩy, trong số đó có thể có ông bà cha mẹ, anh chị em, bà con bạn hữu và ân nhân của chúng ta. Muốn cho các linh hồn đó được sớm về trời hưởng phúc, chúng ta dâng việc lành phước đức, các đau khổ, các ân xá, nhất là Thánh lễ, cầu xin Chúa tha bớt hình phạt cho họ. Các linh hồn nầy đang khẩn thiết kêu cầu chúng ta cứu vớt họ, than trách chúng ta về sự lãnh đạm đối với họ. Lẽ nào chúng ta đành làm ngơ trước sự đau khổ khốn khó của những người thân yêu, những kẻ đã làm ơn làm phước cho chúng ta, những người đồng hương đồng loại với chúng ta ? !

Việc giúp các linh hồn ở luyện ngục bằng lời cầu nguyện và việc lành của chúng ta, đem lại hiệu quả cứu rỗi: một mặt nó cứu vớt các linh hồn khỏi trầm luân đau khổ; mặt khác nó giúp chúng ta tránh mọi tội lỗi và kéo ơn Chúa xuống trên chúng ta; sau cùng khi linh hồn nào được chúng ta cứu vớt, chắc chắn sẽ không quên công ơn chúng ta, sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta ngày sau được hưởng phước với họ.

Mỗi người chúng ta đều phải chết, điều đó ai trong chúng ta cũng biết, nhưng không ai biết mình sẽ chết lúc nào cách nào. Vì thế cần phải chuẩn bị chết lành hằng ngày, bằng cách sống đạo đức thánh thiện luôn, nhờ ơn Chúa giúp và nhờ sự chuyển cầu của các thánh trên trời.

Thánh Am-rô-si-ô nói: “Chết là một mối lợi còn sống là một khổ hình. Vì thế thánh Phao-lô quả quyết: Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, còn chết là một mối lợi. Đức Ki-tô là gì, nếu không phải là sự chết cho thể xác và là Thần Khí ban sự sống?”

“Vì thế chúng ta hãy cùng chết với Người để cùng sống lại với Người. Chớ gì hằng ngày chúng ta tập quen với sự chết và yêu mến nó, để linh hồn chúng ta nhờ sự chia lìa nầy mà biết đoạn tuyệt với các dục vọng xác thịt. Khi linh hồn được đặt ở nơi cao cả như thế, dục vọng trần tục không thể tới gần để bẫy nữa, linh hồn sẽ lãnh hình ảnh sự chết, để khỏi chịu hình ảnh sự chết. Quả vậy, luật xác thịt chống lại luật tinh thần và muốn kéo tinh thần vào lầm lạc. Có phương thế nào cứu chữa không? Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết dở nầy? Chính ơn của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng ta”

* Quyết tâm
Hằng ngày lo cầu nguyện, làm việc lành, dự Thánh lễ, để cứu vớt các linh hồn ở luyện ngục; đồng thời lo xa chừa tội lỗi và mọi thói hư tật xấu, để ngày sau khỏi phải đền tội trong luyện ngục, mà được về hưởng phước với Chúa trên Thiên đàng.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhậm lời chúng con khẩn nguyện, mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng: chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển, Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa…
 

Ngày 3 tháng 11

THÁNH MÁC-TI-NÔ PÔ-RÊ

Tu Sĩ

* Gương Thánh nhân

Thánh Mác-ti-nô sinh năm 1579, tại Li-ma, nước Pê-ru. Cha ngài là một hiệp sĩ Tây-ban-nha, mẹ là người nô lệ da đen đã được phóng thích. Vì khác biệt màu da giai cấp như thế, cha mẹ ngài sống không mấy hạnh phúc, mà còn gây buồn tủi cho ngài và anh em ngài. Nhưng Mác-ti-nô vui lòng chấp nhận mọi nhục nhã hất hủi vì lòng mến Chúa, như những nén bạc Chúa trao để trổ sinh đức khiêm nhường bác ái.

Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã hiến mình phục vụ kẻ nghèo khổ bệnh tật cách khiêm tốn và hết mực vị tha, kể cả bị chống đối nhục mạ nữa. Chẳng hạn có lần ngài gặp một người da đỏ lớn tuổi bị tên lính Tây-ban-nha hành hạ. Ngài đến cứu giúp ông, nhưng ông cự tuyệt và miệt thị ngài là dòng da đen hèn hạ. Dù vậy, thánh nhân vẫn từ tốn năn nỉ ông, làm cho ông cảm phục và sẵn lòng nhận sự săn sóc giúp đỡ của ngài.

Nhờ học biết cách chữa bệnh gia truyền, thánh nhân chữa được nhiều chứng bệnh mà không tốn kém bao nhiêu, giúp được những người nghèo khổ bệnh hoạn mà không có tiền chữa trị. Ngài cũng chữa được bệnh của các loại gia súc.

Để tăng thêm nhân đức, thánh nhân đã gia nhập Dòng Thánh Đa-minh, và được nhận làm trợ sĩ tại tu viện Đức Mẹ Môi-Khôi ở Li-ma. Năm 1603, ngài được tuyên khấn. Ngài vẫn tiếp tục làm nghề thuốc, giúp chữa bệnh các tu sĩ trong nhà Dòng. Ngoài ra, thánh nhân lo tinh luyện đời sống thiêng liêng. Ngài đặc biệt mộ mến Bí tích Thánh Thể và Chúa Giê-su chịu đóng đinh. Và để noi gương Chúa, ngài luôn làm đầy tớ phục vụ mọi người, sẵn sàng làm hết mọi việc thấp hèn. Ban ngày ngài làm việc bổn phận chu đáo, đêm đến, ngài đọc kinh cầu nguyện, sống kết hợp với Chúa.

Thánh nhân qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1639 tại Li-ma, và được Đức Giáo Hoàng Gioan 23 tôn phong Hiển thánh năm 1962.

Trong buổi lễ tôn phong thánh nhân, Đức Giáo Hoàng nói: “Qua những mẫu gương trong đời sống thánh Mác-ti-nô chứng tỏ cho chúng con thấy có thể đạt đến sự cứu rỗi và thánh thiện bằng con đường mà Đức Ki-tô đã vạch ra cho ta, nghĩa là trước tiên chúng ta phải yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn; rồi yêu tha nhân như chính mình”.
“Thánh nhân đã thâm tín Đức Giêsu-Kitô đã chịu đau khổ vì ta, và trên thập giá Người đã mang lấy tội ta trong chính thân xác Người. Vì thế thánh nhân đã yêu thích đặc biệt Đức Giê-su chịu đóng đinh, và khi chiêm niệm những đau khổ của Người, ngài không thể cầm được nước mắt. Thánh nhân cũng đặc biệt yêu kính Thánh Thể. Thông thường ngài kín đáo chầu Thánh Thể trong nhà tạm nhiều giờ liên tiếp và ngài mong muốn được Thánh Thể nuôi dưỡng càng nhiều càng hay”.

“Rồi vâng theo lời Thầy chí Thánh, thánh Mác-ti-nô đối xử với anh em bằng tất cả đức ái, một đức ái phát xuất từ trái tim không phai nhòa và tâm hồn khiêm nhu. Ngài yêu mến người khác vì coi họ thực sự là con cái Thiên Chúa và là anh em của ngài. Hơn nữa ngài còn yêu họ hơn mình, vì quả thực, với tất cả khiêm tốn ngài nghĩ họ công chính và hoàn hảo hơn mình”.

“Ngài chữa lỗi cho người khác và tha thứ những sỉ nhục cay cú nhất. Ngài xác tín rằng: do tội đã phạm, mình còn đáng phải chịu những hình phạt nặng nề hơn nữa. Ngài hăng say cố công dẫn đưa tội nhân về đàng ngay. Ngài ân cần trợ giúp người đau yếu, cung cấp cho người thiếu thốn của ăn, áo mặc, thuốc men. Với những nông dân và người da đen hoặc lai, lúc đó bị coi như những nô lệ xấu xa, ngài vỗ về giúp đỡ theo khả năng của mình, và lo lắng cho họ đến độ ngài được quần chúng mệnh danh là “Mác-ti-nô bác ái”.

Quả thật, nhờ lời nói gương lành và nhân đức, vị thánh nầy đã lôi kéo được nhiều người theo đạo. Bây giờ ngài còn có thể lạ lùng hướng tâm trí ta về trời…”

* Quyết tâm
Noi gương thánh Mác-ti-nô Pô-rê, tôi hết lòng kính mến Chúa và thương yêu mọi người, sống khiêm tốn và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục để phụng sự Chúa và anh chị em.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã dẫn đưa thánh tu sĩ Mác-ti-nô qua con đường khiêm nhu ẩn dật đến vinh quang thiên quốc.

Xin cho chúng con ngày nay biết noi gương người, để mai sau được cùng người hưởng vinh quang thiên quốc.

Chúng con cầu xin…
 

* THÁNH PHÊ-RÔ PHAN-XI-CÔ BẮC

Linh Mục Thừa Sai Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Chúa Giê-su cùng các tông đồ lên Giê-ru-sa-lem. Người muốn đi ngang qua làng Sa-ma-ri-a, nhưng dân làng từ chối không chấp nhận, vì họ thù ghét người Do-thái. Còn cha Phê-rô Bắc khi bị vua quan lùng bắt, giáo dân ở Tạ Xá và Yên Tập tìm cách tống khứ cha đi vì sợ liên lụy. Thật là một cảnh tượng đau lòng. Lúc bình yên, cha đã tận tụy hy sinh lo lắng giúp đỡ họ cả hồn lẫn xác. Vậy mà khi gặp khó khăn họ không dám chứa chấp cha, khiến cha phải trốn chui trốn nhủi rày đây mai đó, và sau cùng đã bị bắt…
Phê-rô Phan-xi-cô Bắc sinh ngày 21 tháng 09 năm 1818, tại Bọt-đô nước Pháp. Vì con nhà nghèo, phần anh em đông, nên mặc dầu được đi học, cậu Phê-rô cũng phải phụ giúp cha mẹ; ngoài ra giờ học, hằng ngày cậu ra đồng chăn súc vật. Nhưng Chúa thường thương những người nghèo khó. Người kêu gọi cậu và cậu sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa. Năm lên 19 tuổi, cậu xin gia nhập chủng viện, hiến dâng đời mình cho Chúa. Đến năm 1845, cậu vào Đại chủng viện, chịu các chức nhỏ trong hàng giáo sĩ. Trong thời gian nầy, thầy được Chúa soi sáng thúc giục đi truyền giáo ở các miền xa, nên ngày 01 tháng 08 năm 1846, thầy xin gia nhập Hội Thừa sai Pa-ri, là nơi chuyên đào tạo Linh mục truyền giáo vùng Viễn Đông. Ngày 17 tháng 06 năm 1846, thầy thụ phong Linh mục, và được gởi đi giảng đạo tại Việt Nam .

Sau gần 06 tháng vượt biển, ngày 15 tháng giêng năm 1849, vị tân Linh mục thừa sai đã đến Việt Nam. Cha đến trình diện với Đức Cha Liên ở giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha đặt tên cha là Bắc và cho đến chủng viện Kẻ Vĩnh học tiếng Việt, sau đó đặt cha làm Giám đốc, chăm sóc dạy dỗ 150 chủng sinh. Cha tận tình dạy dỗ huấn luyện các em. Công việc thật vất vả nặng nề, vì thiếu sách vở cũng như giáo sư. Cha phải thức khuya dậy sớm dọn bài, dịch sách cho các chủng sinh học tập.

Dù lo giáo dục kiến thức và nhân bản, cha vẫn không xao lãng huấn luyện đời sống nội tâm cho các chủng sinh. Để làm công việc nầy kết quả, trước hết cha nêu gương cho họ. Hằng ngày cha cầu nguyện sốt sắng, suy gẫm sự thương khó Chúa qua 14 chặng đàng Thánh giá; cha ăn chay mỗi ngày thứ sáu, đặc biệt trong mùa chay và các ngày lễ kính Đức Mẹ. Nhờ gương nhân đức và lời giáo huấn nhiệt thành của cha, các chủng sinh ngày càng tiến triển về văn hóa cũng như đời sống nội tâm. Mọi người đều vui mừng hy vọng, đặt hết niềm tin ở một tương lai sáng lạn cho giáo phận, nhờ các chủng sinh tài đức do cha đào luyện.

Nhưng đúng là “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Ngày 17 tháng giêng năm 1860, sau khi thất bại trong cuộc đụng độ với quân đội Pháp, vua Tự Đức ra chiếu chỉ bắt đạo gắt gao, và lệnh cho các quan phải triệt để thi hành, ai bất tuân sẽ bị nghiêm phạt.

Thế là chủng viện Kẻ Vĩnh phải giải tán. Đức Giám mục, các Linh mục phải ẩn trốn, nhiều giáo hữu bị bắt bớ, hành hạ, giết chết. Cha Phê-rô Bắc là người ngoại quốc, da trắng, mũi cao, rất dễ bị lộ. Giáo dân sợ không dám chứa chấp cha. Cha phải ẩn lánh rày đây mai đó cực khổ. Nhiều ngày bị quân lính bao vây ráo riết, cha phải nhịn đói nhịn khát đến ngất xỉu. May nhờ giáo dân ở Tạ Xá gặp thấy, tiếp tế cho cha.

Nhưng quân lính biết cha đang ở Tạ Xá, họ đến vây bắt cha. Giáo hữu hoảng hốt, đưa cha xuống thuyền trốn sang xứ Yên Tập. Không ngờ ở đây có tên Giu-đa phản bội, vì tham tiền đã nộp cha cho quan cai tổng. Thật đời nào cũng có những tên Giu-đa độc ác !...

Thế là cha bị bắt ngày 05 tháng 08 năm 1860 tại Yên Tập. Quan ra lệnh nhốt cha trong cái củi chật hẹp, nhịn ăn suốt 21 ngày đêm cực khổ đói khát, bị đòn vọt tra tấn, nhưng cha cương quyết trung thành theo Chúa, sẵn sàng chịu chết đổ máu ra để làm chứng cho Chúa. Ngày 03 tháng 11, vị anh hùng đức tin đã được đưa ra pháp trường Sơn Tây (Hà Nội). Và sau ba hồi chiêng trống, đầu cha đã lìa khỏi cổ, máu tuôn ra làm hạt giống trổ sinh các tín hữu.

Đức Thánh Cha Pi-ô 10 phong Chân phước cho cha ngày 02 tháng 05 năm 1909. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Giáo Chủ Gioan-Phaolô 2 đã suy tôn cha lên Hiển thánh.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Phê-rô Bắc Linh mục tử đạo, nhiệt thành giảng đạo Chúa, chăm lo giáo dục giới trẻ bằng gương sáng đi đôi với lời dạy bảo, và sẵn sàng hy sinh chịu khổ để làm chứng cho Chúa.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 4 tháng 11

THÁNH CA-RÔ-LÔ BÔ-RÔ-MÊ-Ô

Giám Mục

* Gương Thánh nhân

Thánh Ca-rô-lô là vị Giám mục nổi tiếng của giáo phận Mi-lăn. Ngài sinh năm 1538 tại A-rô-na, trong một gia đình quý tộc và đạo đức.

Lớn lên, thánh nhân theo học luật tại Pa-ri, nước Pháp. Và năm 1559, ngài đã đạt bằng Tiến sĩ.

Lúc đó, cậu ngài là Mê-đi-ci được bầu làm Giáo Hoàng, lấy hiệu là Pi-ô thứ 4; ngài được triệu về Rô-ma làm thư ký, và năm sau được lãnh chức Hồng Y, với quyền cai quản giáo phận Mi-lăn. Nhưng vì nhu cầu đòi hỏi, ngài phải ở lại Rô-ma, giúp Đức Giáo Hoàng tổ chức công đồng Tri-đen-ti-nô. Sau khi công đồng kết thúc vào năm 1546, ngài lại phải chăm sóc Đức Giáo Hoàng là cậu ngài đang lâm bệnh nặng cho đến khi qua đời. Ngài chỉ được đến Mi-lăn thiệt thọ vào năm 1566.

Giáo phận nầy đang gặp cơn khủng hoảng trầm trọng: từ giáo dân đến giáo sĩ và các dòng tu đều sa sút về đạo đức. Ngài nổ lực canh tân tất cả. Ngài là người làm việc không biết mệt mỏi và luôn luôn cầu nguyện. Lời nguyện và hoạt động là lý tưởng đời sống của ngài. Ngài dành trọn quãng đời còn lại để lo hoàn chỉnh giáo phận, bằng lời dạy dỗ nhất là bằng gương sáng.

Dựa theo những quyết định của Công đồng Tri-đen-ti-nô, thánh nhân đổi mới mọi sinh hoạt trong giáo phận: trước tiên ngài lo củng cố lại hàng giáo sĩ và các dòng tu, vì đây là thành phần nòng cốt cho mọi hoạt động mục vụ. Mặc dầu giáo phận rộng lớn, ngài cố gắng đi thăm viếng các nơi, quan sát từng chỗ, rồi khích lệ, bảo ban, sửa đổi cho hợp với đường lối của Hội thánh. Ngài thiết lập thêm nhiều tu viện và chủng viện, để đào tạo giáo sĩ tu sĩ. Những tu viện hoặc chủng viện nào sa sút kém cỏi, ngài củng cố tu chỉnh lại. Ngài dạy bảo họ:

“Tôi nhận thực là hết thảy chúng ta đều yếu đuối, nhưng Thiên Chúa lại ban cho chúng ta nhiều phương tiện, mà nếu chúng ta biết sử dụng, sẽ trở thành nguồn lực cho chúng ta…

“Hỡi các bạn, các bạn nên hiểu rằng: không có gì thiết yếu cho giáo sĩ chúng ta bằng việc nguyện ngắm, nó phải đi trước, đi đôi và theo sau mọi hoạt động của chúng ta; như lời vị ngôn sứ xưa đã nói: Tôi sẽ ca ngợi Chúa và tôi sẽ hiểu. Nầy bạn, nếu bạn ban các Bí tích, bạn hãy suy gẫm điều mình làm; nếu bạn cử hành Thánh lễ, bạn hãy suy gẫm điều mình dâng hiến; nếu bạn hát ca vịnh nơi cung thánh, bạn hãy suy gẫm mình đang hát gì và hát cho ai; nếu bạn chăm sóc các linh hồn, bạn hãy suy nghĩ nhờ máu ai mà họ được tẩy rửa. Và như vậy bạn làm mọi việc với lòng yêu mến; như thế chúng ta mới có thể dễ dàng chiến thắng mọi trở ngại mà chúng ta gặp phải hằng ngày, và cũng nhờ đó mà chúng ta mới có thể tác sinh Đức Ki-tô nơi chúng ta cũng như nơi tha nhân”

Nhưng hoạt thì động. Công cuộc canh tân của thánh nhân bị nhiều người bất mãn chống đối. Họ tổ chức giết hại ngài. Một lần đang khi cầu nguyện, ngài xém chết vì cuộc mưu sát của họ.

Năm 1576 đến 1578, một cơn dịch hạch xảy ra dữ tợn tại Mi-lăn, thánh nhân dồn hết năng lực trợ giúp dân chúng khổ sở. Ngài bố thí tất cả những gì ngài có, ngài sai các Linh mục tu sĩ chăm sóc cả phần hồn lẫn phần xác của họ; ngài tổ chức nhiều buổi cầu nguyện, kêu xin Chúa thương cứu vớt họ. Nhờ đó mà cơn bệnh ngặt nghèo nầy đã chấm dứt. Mọi người vui mầng cảm tạ ơn Chúa và mến phục ngài. Những kẻ trước kia chống đối ngài bao nhiêu, nay quý mến ngài bấy nhiêu, nhất là những người tội lỗi và ngoại giáo thấy vậy thì ăn năn trở lại với Chúa.

Thánh nhân qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584, hưởng thọ 46 tuổi. Đức Giáo Hoàng Phao-lô 5 đã phong thánh cho ngài năm 1610.

* Quyết tâm
Hằng ngày cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị tông đồ thánh thiện, giàu lòng mến Chúa yêu người như thánh Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô; và noi gương thánh nhân, hết lòng phụng sự Chúa và phục vụ mọi người.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, xin hằng ban ơn Thánh Thần cho Giáo hội, như xưa Chúa đã ban cho Thánh Giám mục Ca-rô-lô, để Giáo hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Ki-tô, là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa…
 

Ngày 05 tháng 11

* THÁNH ĐA-MINH HÀ TRỌNG MẬU

Linh Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Gương đặc biệt thánh Đa-minh Mậu để lại chính là lòng nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, củng cố niềm tin cho các tín hữu khắp nơi mọi lúc, lúc dễ dàng cũng như khi khó khăn, cả trong những ngày tù ngục khổ sở. Thánh nhân đã thực hiện đúng như lời thánh Phao-lô tông đồ:

Khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn, anh em hãy nhiệt thành giảng rao đạo Chúa .

Đa-minh Hà Trọng Mậu sinh năm 1794, tại xứ Phú Nhai, tỉnh Nam Định, trong một gia đình đạo giáo siêng năng cần mẫn. Nhờ gương nhân đức của cha mẹ, cậu Đa-minh lớn lên rất mộ mến việc tôn kính Chúa, càng thêm tuổi càng thêm lòng đạo đức sốt mến. Do đó cậu được Chúa thương kêu gọi giúp việc trong vườn nho của Người.

Vâng theo tiếng Chúa gọi, cậu xin gia nhập chủng viện, quyết hiến dâng trọn đời phụng sự Chúa. Hằng ngày cậu chuyên cần học hành, tập luyện nhân đức, được Bề Trên khen ngợi, bạn hữu quý mến. Và sau khi mãn khóa thần học, thầy Đa-minh Mậu thụ phong Linh mục, trong niềm hân hoan phấn khởi của gia đình và thân bằng quyến thuộc.
Mặc dầu đã được làm Linh mục, đã nhiều năm tập rèn đức hạnh ở chủng viện, cha Đa-minh vẫn cảm thấy mình còn kém khuyết về đàng nhân đức. Cha muốn tiến xa hơn nữa, để sống kết hợp mật thiết với Chúa hơn, để phục vụ các linh hồn đắc lực hơn. Năm 1829, cha đã cùng với 10 Linh mục khác trong giáo phận xin vào dòng Đa-minh, là hội dòng chuyên cần cầu nguyện và chăm lo việc giảng thuyết. Nhờ đó cha rất thành công trong việc giảng đạo, và được phúc lãnh nhận triều thiên tử đạo vinh hiển.

Đức Cha đã sai cha đi giúp nhiều họ đạo. Đến nơi nào, cha cũng tận tâm lo cho con chiên, đem hết tài năng sức lực phục vụ các linh hồn. Chẳng những cha chịu khó chăm sóc đàn chiên, cha còn dành nhiều thời giờ loan truyền đạo Chúa cho người lương; nhiều người chưa biết Chúa nhờ nghe lời cha giảng dạy khuyên bảo mà tin theo đạo.

Nhiều lúc khó khăn nguy hiểm cho tánh mạng, cha vẫn can đảm tận tụy hy sinh, không kể gì gian lao chết chóc, vì đã ước nguyện dâng trọn đời cho Chúa. Trải qua những năm tháng gian khổ bách hại dưới trào vua Minh Mạng cũng như Tự Đức, cha luôn tỏ ra là một tông đồ can đảm nhiệt thành, không bao giờ lùi bước trước các cơn thử thách. Cha thường nói:

- Ngày nào Chúa cho tôi sống, tôi nguyện đem hết khả năng phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn. Sống chết tôi hoàn toàn phó thác cho Chúa .

Ngày 27 tháng 08 năm 1858, giữa lúc cha đang giúp xứ Kẻ Điền, quân lính đến vây bắt, giải về Hưng Yên. Trong thời gian hai tháng bị giam trong ngục, cha đã biến ngục thất thành căn cứ truyền giáo, nơi khổ hình thành địa điểm hoạt động tông đồ. Mặc dầu bị gông cùm xiềng xích, chịu tra tấn đòn vọt đau đớn, cha vẫn can đảm chấp nhận vì Chúa, để nêu gương kiên vững cho giáo hữu cùng chịu ngục tù. Đặc biệt cha luôn an ủi khích lệ họ sẵn sàng chịu đau khổ vì đức tin, noi gương Chúa Giê-su chịu khổ nạn, để cứu rỗi linh hồn mình và linh hồn đồng bào đồng loại. Nhiều tín hữu nhát đảm nhờ gương anh dũng của cha mà can đảm tuyên xưng đức tin, nhiều tội nhân hoán cải đời sống, nhiều giáo hữu ở ngoài lẻn vào thăm cha, cốt ý để xưng tội với cha…

Cha bị đưa ra tra tấn nhiều lần. Có lần bị đánh đến ngất xỉu; và sau khi tỉnh lại, quan án bảo cha đạp lên thập giá để được tha chết, cha thẳng thắn nói:

- Tôi muốn chịu chết để làm chứng cho Chúa là Thiên Chúa thật, và đạo của Người là chánh đạo.

Thấy không thể lay chuyển nổi lòng tin sắt đá của vị chiến sĩ Chúa, quan kết án trảm quyết cha và 21 giáo hữu cùng bị giam với cha. Ngày 05 tháng 11 năm 1858, tất cả cha con được dẫn ra pháp trường. Cha đi đầu như vị tướng lãnh chỉ huy một đoàn hùng binh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đức tin. Đến bờ sông Hưng Yên, cha quỳ gối cầu nguyện, rồi đưa cổ cho lý hình chém, để lãnh triều thiên vinh hiển muôn đời.

Đức Thánh Cha Pi-ô 12 phong cha lên Chân phước ngày 29 tháng tư năm 1951, và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 suy tôn cha lên bậc Hiển thánh.

* Quyết tâm
Hằng ngày ra sức sống đạo đức sốt sắng hơn, để có thể giảng rao đạo Chúa mọi lúc khắp nơi, và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Chúa, theo gương thánh Đa-minh Mậu, Linh mục tử đạo.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 07 tháng 11

* THÁNH VINH- SƠN LIÊM VÀ GIA-CIN-TÔ GIA

Linh Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Tử đạo là làm chứng cho Chúa. Chính Chúa Giê-su là vị tử đạo dầy ý nghĩa, và là khuôn mẫu tử đạo cho các tông đồ môn đệ sau nầy.

Noi gương Đức Ki-tô, các thánh tử đạo Việt Nam thông hiệp trọn vẹn vào việc làm chứng và công trình cứu rỗi của Người. Các ngài chẳng những làm chứng bằng mạng sống, mà còn bằng lời nói của mình, như trường hợp hai thánh Vinh-sơn Liêm và Gia-cin-tô tử đạo hôm nay.

* * *
Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm chào đời năm 1732, tại làng Trà Lũ tỉnh Nam Định, trong một gia đình thân hào đạo đức.

Năm 12 tuổi, cậu nghe theo tiếng Chúa gọi, dâng mình vào nhà Chúa, tu luyện trong trường do các cha Dòng Đa-minh điều khiển. Thấy cậu thông minh đạo đức, các cha tin chắc sau nầy cậu có thể giúp ích nhiều cho Hội thánh, nên gởi đi du học tại Ma-ni-la, nước Phi-luật-tân.

Đúng như các cha nhận xét, thầy Vinh-sơn Liêm học hành xuất sắc, đạo đức dồi dào. Và để phát triển thêm nhân đức, thầy xin gia nhập Dòng thánh Đa-minh, lấy hiệu là Vinh-sơn Hòa Bình. Sau đó, thầy còn học thêm bốn năm thần học. Năm 1758, thầy thụ phong Linh mục và trở về phục vụ quê hương. Ngày 20 tháng giêng năm 1759, vị tân Linh mục về tới Trung Linh, được cha chính địa phận và thân quyến đón tiếp nồng hậu, sau tám năm du học nước ngoài.

Trước hết, cha được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung Linh. Cha đem hết tài lực truyền đạt cho chủng sinh tất cả những gì cha đã học biết. Cha mong mỏi làm sao cho họ thu nhập được nhiều kiến thức và tập luyện đầy đủ các nhân đức, để sau nầy phục vụ giáo phận, mở mang Nước Chúa, phát triển Hội thánh. Đặc biệt cha cố gắng huấn luyện cho họ có tinh thần tông đồ, hy sinh chịu khó vì lòng mến Chúa và yêu thương cứu giúp các linh hồn. Vì giữa lúc Hội thánh gặp cơn bách hại, cần có nhiều Linh mục biết hy sinh xả kỷ, can đảm trước mọi thử thách gian khổ.

Sau thời gian ở chủng viện, Đức Cha sai cha đi giúp các xứ Phú Thái, Quất Lâm, Trung Lao, Lạc Thủy… Đến đâu, cha cũng nhiệt thành lo cho giáo dân: giảng dạy đạo lý, ban các Bí tích, an ủi khích lệ họ can đảm trung thành giữ vững đức tin. Cha không chỉ hạn hẹp hoạt động tông đồ trong giáo xứ, mà còn tận tâm rao giảng đạo Chúa cho lương dân, bất chấp khó khăn nguy hiểm trong thời kỳ cấm đạo.

Ngày 01 tháng 10 năm 1773, đang lúc cha chuẩn bị cho giáo dân mừng lễ Đức Mẹ Môi Khôi tại họ Lương Đống, quân lính đến vây bắt đem nộp cho quan chánh tổng. Quan giam cha tại đó 12 ngày, cố ý đợi giáo hữu đem tiền đến chuộc; nhưng khi không thấy ai đưa tiền đến thì giải cha về Hà Nội. Tại đây, cha được gặp cha Gia-cin-tô Gia là Linh mục cùng dòng, đã bị bắt giam và đang chờ ngày xét xử.

Gia-cin-tô Gia sinh ngày 13 tháng 10 năm 1743, tại Gia-ti-va, nước Tây-ban-nha.

Lớn lên, được Chúa ban ơn soi sáng, cậu quyết tâm dâng mình giảng đạo Chúa. Cậu xin gia nhập dòng Đa-minh, và năm 1762 được gởi sang Phi-luật-tân tu luyện học tập. Sau khi mãn khóa thần học, thầy Gia-cin-tô thụ phong Linh mục và tình nguyện đi giảng đạo ở Trung Hoa. Tháng tư năm 1766, vị tân Linh mục nhiệt thành truyền giáo nầy đã đến Phúc Kiến, giữa lúc ở đây đang gặp cơn bắt đạo gắt gao. Dù vậy cha vẫn can đảm lăn xả vào cánh đồng truyền giáo, bất chấp nguy hiểm khó khăn. Chỉ trong vòng ba năm, cha đã giúp nhiều người biết Chúa, khuyến khích các tín hữu giữ vững niềm tin.

Công cuộc truyền giáo đang trên đà phát triển thì ngày 18 tháng 07 năm 1769, cha bị bắt và bị trục xuất ra khỏi Trung Hoa.

Rời Trung Hoa đầy thương tiếc, nhưng cha không ngã lòng. Cha đến Ma-cao, gặp ngay dịp hai cha cùng dòng từ Ma-ni-la tới để đi truyền giáo tại Việt Nam . Phải chăng Chúa Quan phòng muốn cha đến giúp người Việt Nam nhìn biết tin kính Chúa? Cha tháp tùng theo hai cha đó, và ngày 23 tháng 02 năm 1770, cha đã đến Bắc Việt ở tại Trung Linh học tiếng và lấy tên Việt là Gia.

Sáu tháng sau, Bề trên cử cha đến giúp xứ Lai Ổn và Kẻ Điền. Vì hai xứ đạo ở cách xa nhau, cha phải vất vả tới lui lo việc mục vụ, phải đi bộ nhiều ngày nhiều lần, nên sức khỏe ngày một giảm sút. Dù vậy, cha cũng cố gắng chu toàn bổn phận mục tử. Giáo dân thấy cha yếu sức mà vẫn nỗ lực chịu khó giảng dạy và ban các Bí tích hằng ngày thì hết lòng yêu mến kính phục. Nhờ đó họ luôn luôn sẵn sàng nghe lời cha khuyên bảo dạy dỗ, sốt sắng giữ đạo, giữ vững niềm tin.

Ngày 12 tháng 07 năm 1773, cha được mời đi xức dầu cho một bệnh nhân ở xứ Lai Ổn. Trên đường về, cha bị quan phủ Thân Khê vây bắt, nhốt vào củi, giải nộp cho chúa Trịnh Sâm. Cha bị giam ở đây khoảng 03 tháng thì cha Vinh-sơn Liêm cũng bị bắt, giải về nhốt chung với cha. Thật là một niềm vui không tả xiết, hai anh em cùng dòng cùng lý tưởng, nay cùng chung chịu ngục tù hình khổ để làm chứng cho Chúa.

Trước hết, các ngài làm chứng cho Chúa bằng lời nói. Lúc đó người chú của chúa Trịnh Sâm làm quan lớn trong triều. Ông ta muốn tìm biết đạo nào là đạo chánh thật, nên mời đại diện bốn tôn giáo lớn trong nước là Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo đến trình bày đạo lý cho ông ta nghe. Hai cha Vinh-sơn Liêm và Gia-cin-tô Gia được cử làm đại diện cho Thiên Chúa giáo. Sau ba ngày trao đổi giáo lý giữa bốn tôn giáo, vị quan lớn rất khen ngợi giáo lý Công giáo. Nghe tin đó, bà Thái Tôn là mẹ của chúa Trịnh Sâm tò mò muốn biết đạo Chúa. Bà cho mời cha Liêm và cha Gia đến. Và sau khi nghe hai cha trình bày đạo lý, bà hỏi:

- Nếu chỉ có đạo của các ông là đạo chính thật, thì những người không tin theo đạo đó chết rồi đi đâu?

Cha Liêm đáp:

- Họ sẽ phải bị phạt trong hỏa ngục khốn khổ đời đời.

Nghe vậy, bà ta nổi giận, buộc chúa Trịnh Sâm phải xử tử hai cha. Thế là ngày 07 tháng 11 năm 1773, quân lính điệu hai vị chiến sĩ Phúc âm ra pháp trường Đông Mơ thi hành án tử, để sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói, các ngài được làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của mình.

Ngày 20 tháng 05 năm 1906, Đức Thánh Cha Pi-ô 10 tôn phong hai vị chứng nhân anh dũng lên Chân phước. Và Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 đã suy tôn các ngài lên Hiển thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Vinh-sơn Liêm và Gia-cin-tô Gia tử đạo, hằng ngày hy sinh chịu khó rao giảng đạo Chúa, làm chứng cho Chúa bằng lời nói và đời sống thánh thiện gương mẫu.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 08 tháng 11

* THÁNH GIU-SE NGHI, PHAO-LÔ NGÂN,

MÁT-TI-NÔ THỊNH, MÁT-TI-NÔ THỌ

VÀ GIOAN BAO-TI-XI-TA CỎN

Linh Mục và Giáo Dân Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Cả ba Linh mục Giu-se Nghi, Phao-lô Ngân, Mát-ti-nô Thịnh cùng với hai giáo dân là Mát-ti-nô Thọ và Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn đều bị bắt tại xứ Kẻ Báng, tỉnh Nam Định, và được phúc tử đạo trong một ngày.

Lúc sinh thời, các ngài thương yêu nhau, lo lắng giúp đỡ nhau phần hồn phần xác; khi bị bắt, các ngài nâng đỡ khuyến khích nhau giữ vững niềm tin, trung thành bền đỗ tin theo Chúa; khi chết, các ngài cùng chịu chết vì Chúa, cùng làm chứng cho Chúa, cùng lãnh triều thiên vinh hiển… Thật đúng ở đâu có nhiều người hợp nhau thì có Chúa ở giữa họ, giúp họ chiến thắng cả thần dữ và sự chết…

* * *
Giu-se Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793, tại xứ Kẻ Vồi, nay thuộc Hà Nội. Lớn lên, cậu được Chúa chọn giúp việc giảng đạo. Cậu theo học trường thầy giảng rồi trở về giúp họ đạo nhà. Nhưng các cha thấy thầy thông minh đạo đức, có thể làm tông đồ đắc lực, nên cho học thần học và được Đức Cha phong chức Linh mục năm 30 tuổi.

Từ ngày được làm Linh mục, cha Nghi hết sức tận tụy hy sinh lo cho giáo dân. Và để làm việc tông đồ mục vụ đắc lực, hằng ngày cha ăn chay hãm mình ép xác, có ý hiệp cùng sự thương khó Chúa Ki-tô, cứu rỗi linh hồn mọi người. Công việc cha chuyên cần hơn hết là giảng dạy giáo lý và ngồi tòa giải tội. Nhiều người tội lỗi, lắm kẻ lạc đạo nhờ cha mà ăn năn sám hối trở về với Chúa. Đức Cha nhờ cha đi giúp nhiều nơi, như các xứ Sơn Miêng, Kẻ Vạc, Phúc Nhạc… Nơi nào cha cũng cứu vớt được nhiều linh hồn về cho Chúa. Sau cùng đang lúc làm cha xứ Kẻ Báng thì cha bị bắt cùng với cha Phao-lô Ngân và cha Mát-ti-nô Thịnh.

Phao-lô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa, trong một gia đình rất ngoan đạo. Nhờ đó, ngay từ nhỏ cậu đã được Chúa thương kêu gọi dâng mình giúp việc Chúa. Cậu xin gia nhập chủng viện, học hành tu luyện, chuẩn bị làm Linh mục. Sau khi mãn khóa thần học, thầy Phao-lô Ngân thụ phong Linh mục, được Đức Cha bổ nhiệm giúp xứ Phúc Nhạc, đảm trách luôn họ đạo Duyên Mậu và các họ nhỏ gần đó.

Cả đời Linh mục của cha là noi gương Chúa Giê-su, Vị Mục tử nhân lành, chăm sóc từng con chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Hằng ngày ngoài ra việc mục tử ở nhà thờ, cha thường xuyên chịu khó đến với các gia đình giáo dân, thăm hỏi từng người, biết rõ từng con chiên, để thực hành theo gương Vị Mục tử chí Thánh:

“Chiên nào thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm; chiên nào tản mác, Ta sẽ lùa về; chiên nào xây xát, Ta sẽ băng bó; chiên nào bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức; còn chiên nào mạnh khỏe, Ta sẽ giữ gìn (Ed. 34,16).

Và khi Đức Cha gọi cha về làm phó xứ Kẻ Báng, giúp cha Giu-se Nghi được một năm thì cả hai bị bắt cùng với cha Mát-ti-nô Thịnh.

Mát-ti-nô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760, tại làng Kẻ Sét, nay thuộc tổng giáo phận Hà Nội.

Ngay từ nhỏ, cậu đã có ý muốn đi tu, nhưng lòng còn e ngại. Dần dà đến năm 18 tuổi, lúc cha mẹ định cưới vợ cho, cậu mới xin hoãn lại để suy nghĩ. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng nhất là cầu nguyện sốt sắng một thời gian, cậu nhất quyết dâng mình cho Chúa và xin vào chủng viện. Và trong thời vua Cảnh Thịnh cấm đạo, thầy Mát-ti-nô Thịnh được lãnh chức Linh mục, do Đức Cha Gia-cô-bê Gia chủ phong.

Cha làm bí thư ở Tòa Giám mục, sau đó được bổ nhiệm đi giúp các xứ Kẻ Bạng, Đồng Chuối , Nam Sang. Lúc gần 80 tuổi, Đức Cha lại cử cha làm chính xứ Kẻ Trình. Tuổi già, sức yếu, lại thêm bị ung nhọt ở miệng, ăn uống không được, ngày đêm đau nhức. Dù vậy, cha cũng cố gắng dâng Thánh lễ, ngồi tòa giải tội cho bổn đạo. Một hôm ông Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn đến thăm. Thấy cha đau đớn khổ sở quá, liền rước về nhà đứa cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Đang lúc chữa bệnh ở đây, cha bị bắt cùng với cha Giu-se Nghi, cha Mát-ti-nô Ngân, và hai giáo dân là Mát-ti-nô Thọ và Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn.

Mát-ti-nô Thọ sinh năm 1787, tại xứ Kẻ Báng, tỉnh Nam Định.

Ông tên thật là Nho, đã lập gia đình có được tám người con. Tuy con đông, ông vẫn giáo dục chu đáo bằng gương mẫu đời sống hằng ngày, nên người con nào cũng sống hiền lương đạo đức.

Là một giáo dân nhiệt thành ngay thẳng, dân làng ai cũng biết danh tiếng ông. Họ cử ông làm viên thuế trong làng, còn giáo hữu thì chọn ông làm trùm trong họ đạo. Ngoài ra bổn phận gia đình, hằng ngày ông tận tụy lo giúp việc chung cho làng xã, xứ đạo. Đặc biệt ông sẵn sàng giúp đỡ cộng tác với các Linh mục trong việc mở mang Nước Chúa. Nhà ông luôn rộng mở đón tiếp các cha, mặc dầu ông biết việc làm nầy rất nguy hiểm cho tính mạng, vì lúc đó tổng đốc Trịnh Quang Khanh đang ráo riết tìm bắt người có đạo, nhất là các giáo sĩ. Chẳng những ông không sợ chết, mà còn muốn được chết vì Chúa. Và đúng thực ông đã bị bắt vì tội chứa chấp cha Giu-se Nghi trong nhà. Lúc đó ông Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn đang nuôi cha già Thịnh để chữa bệnh, nên cũng bị bắt luôn với cha già.

Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn sinh năm 1805, tại xứ Kẻ Báng. Ông sống bằng nghề nông. Gia đình tuy nghèo, nhưng rất siêng năng sốt sắng trong việc thờ phượng Chúa. Đặc biệt ông nhiệt thành phụ giúp các cha rao giảng Tin mừng, thánh hóa môi trường sống, chống lại mọi bất công trong xã hội. Chính ông đã đứng ra tố cáo tên lý trưởng cậy quyền ỷ thế, hà hiếp bóc lột dân chúng. Nhờ đó ông được dân làng tín nhiệm, chọn làm lý trưởng.

Một hôm nghe tin cha già Thịnh đau yếu, ông đến xứ Kẻ Trình thăm cha. Thấy cha bệnh hoạn đau đớn quá, ông rước cha về chăm sóc chữa trị.

Có người trong làng biết ông đang chứa chấp cha già, nên đến trình báo với tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Ngày 30 tháng 05 năm 1840, quan đem quân đến bao vây Kẻ Báng lục soát khắp nơi. Sau hai ngày, họ bắt được ba Linh mục là cha Giu-se Nghi, cha Phao-lô Ngân, cha Mát-ti-nô Thịnh, cùng với hai giáo dân là Mát-ti-nô Thọ và Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn vì tội chứa chấp các Linh mục. Quan ra lệnh đóng gông và giải tất cả về tỉnh Nam Định.

Sau nhiều lần tra tấn cũng như dụ dỗ, thấy cả năm vị đều cương quyết giữ vững đức tin, quan nổi giận, ra lệnh đánh đòn ba vị Linh mục dữ dội, máu chảy lai láng. Quan bắt ông Thọ và ông Cỏn phải liếm máu nơi các vết thương đó, bằng không thì phải bỏ đạo. Hai ông liền quỳ gối xuống liếm máu nơi mình các cha chảy ra, trước sự kinh ngạc của mọi người. Họ không ngờ các ông can đảm đến thế, thà chịu cực chịu khổ hơn là chối Chúa bỏ đạo.

Quan buộc lòng phải kết án trảm quyết tất cả năm vị. Và ngày 08 tháng 11 năm 1840, các ngài được dẫn ra pháp trường Bảy Mẫu, chịu chém chết vì Chúa.

Đức Thánh Cha Lê-ô 13 tôn phong Chân phước cho cả năm vị ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã suy tôn các ngài lên Hiển thánh.

* Quyết tâm
Hằng ngày sống đạo Chúa sốt sắng, giảng đạo Chúa siêng năng, và sẵn sàng cộng tác giúp đỡ các Linh mục trong việc mở mang Nước Chúa, theo gương thánh Giu-se Nghi, Phao-lô Ngân, Mát-ti-nô Thịnh, Mát-ti-nô Thọ và Gioan Bao-ti-xi-ta Cỏn, Linh mục và giáo dân tử đạo.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 9 tháng 11

CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ

Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.

Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Syn-vết-trô mới cung hiến cung điện La-tê-ra-nô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện nầy do hoàng đế Công-tăn-tin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Va-ti-căn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.

Thánh Đường La-tê-ra-nô được gọi là Mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc La-mã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rô-ma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.

Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường nầy, Hội thánh tổ chức mầng lễ hôm nay. Ngày lễ nầy đáng chúng ta mầng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giê-ru-sa-lem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: Giếng Rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xê-da-ri-ô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ nầy. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên dân Ki-tô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”

“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.

“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư ? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư ? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”

* Quyết tâm
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Chúng con cầu xin…
 

Ngày 10 tháng 11

THÁNH LÊ-Ô CẢ

Giáo Hoàng Tiến Sĩ

* Gương Thánh nhân

Thánh Lê-ô sinh tại Rô-ma, nước Ý, năm 398, trong một gia đình nổi tiếng đạo đức. Nhờ đó thánh nhân sớm hấp thụ được nền đạo hạnh, nên khi lớn lên được lãnh nhận chức Phó tế trong Hội thánh.

Và năm 440, thánh nhân được hàng giáo sĩ và giáo dân bầu lên làm Giáo Hoàng. Ngài run sợ trước trách nhiệm nặng nề, nên cầu xin Chúa nâng đỡ giúp sức:
“Lạy Chúa, thật không cân xứng chút nào giữa gánh nặng Chúa trao và sức yếu hèn của con. Chúa đã giao trách nhiệm lớn lao cho con, xin Chúa cũng thương nâng đỡ giúp sức con”.

Sở dĩ thánh nhân run sợ trước trách nhiệm như thế, là vì đây là thời kỳ khó khăn rắc rối cả phần đạo lẫn việc đời. Ngoài đời thì những người ngoại giáo và các dân man di đang xâm chiếm tàn phá khắp nơi, gây đau thương tang tóc cho mọi người. Bên trong Hội thánh, các lạc giáo tranh nhau gieo rắc lý thuyết của họ: lạc giáo nhị nguyên tuyên truyền nguồn gốc vạn vật do hai nguồn Bóng tối và Ánh sáng; phái của A-ri-út chỉ cho Đức Giê-su là một con người thần linh; nhóm Duy nhất tính cũng bảo Con Thiên Chúa mang võ nhân tính bên ngoài, chứ không phải là người thật.

Đứng trước tình thế khó khăn phức tạp nầy, thánh nhân phải dồn hết tài năng sức lực để đối phó. Việc làm trước tiên của ngài là chạy đến Chúa bằng lời cầu nguyện và ăn chay hãm mình, để kêu xin Chúa soi sáng giúp đỡ ngài chu toàn trách vụ. Rồi ngài viết thơ, gởi đại diện, mở Công đồng bàn luận học hỏi những điểm sai lầm của các lạc thuyết, đồng thời phổ biến chân lý tinh tuyền đúng đắn của Tin mừng. Nổi tiếng nhất là bức thư ngài gởi cho Công đồng Can-cê-đon. Bức thư tín lý nầy đã gây được ảnh hưởng mạnh mẽ, làm cho cả 600 Giám mục đang họp công đồng nhất tề kêu lên:

- Chính thánh Phê-rô đã nói qua Đức Giáo Hoàng Lê-ô của chúng ta.

Từ đó, tất cả mọi thành phần dân Chúa đều hợp tác với Đức Giáo Hoàng chống lại các lạc thuyết, truyền bá đức tin, bảo vệ tín điều Ngôi Hai Nhập Thể: Người là Thiên Chúa thật mà cũng là người thật.

Giải quyết khó khăn nội bộ xong, thánh nhân tiếp tục công trình bảo vệ Rô-ma cho khỏi những cuộc tấn công tàn sát của các dân man-di. Lực lượng đáng sợ nhất lúc đó là binh đội của Ắt-ti-la, vua dân Hun. Vị vua nầy đang lăm le tấn công thành Rô-ma. Thánh nhân đích thân đến gặp ông ta, và thật là ơn lạ đặc biệt, ngài được Ắt-ti-la tiếp đón nồng hậu. Sau một lúc thảo luận, vị vua nầy chấp thuận không tấn công Rô-ma, với điều kiện là hằng năm phải cống hiến lễ vật cho ông ta.

Thế là nhờ ơn Chúa giúp, thánh nhân đã cứu Rô-ma và cả nước Ý khỏi tai họa Hun-nô tàn phá giết chóc. Mọi người từ vua tới dân đều vui mầng cảm tạ, và hăng say nhiệt thành thờ kính Chúa.

Nhưng lòng nhiệt thành cảm tạ của họ không tồn tại được lâu. Một thời gian sau họ trở lại sa đọa, lao mình vào các cuộc vui chơi phóng đãng. Thánh nhân hết lời khuyến cáo họ, kêu gọi họ sống trung thành với ơn gọi của Chúa. Ngài bảo họ: “Tất cả những ai đã được tái sinh trong Đức Ki-tô thì dấu thánh giá đã làm cho họ thành quân vương, và việc xức dầu bằng Thánh Thần đã thánh hiến họ thành tư tế: do đó không kể thừa tác viên đặc biệt của tôi, mọi Ki-tô hữu sống theo Thánh Thần và ơn gọi đều phải nhận thấy mình đã thuộc dòng tộc hoàng vương và thông phần vào chức vụ tư tế. Thật vậy, còn gì hoàng vương cho bằng một tâm hồn lụy phục Thiên Chúa mà biết cai trị chính thân xác mình. Và còn gì có tính cách tư tế cho bằng dâng hiến lương tâm tinh tuyền mình cho Thiên Chúa, và dâng trên bàn thờ tâm hồn mình những của lễ hy sinh không tỳ vết của lòng đạo hạnh ?...

Nhưng vì dân chúng không biết nghe lời thánh nhân mà hối cải, nên lại bị vua Gen-sê-ríc của dân man di Văn-đan kéo đến cướp phá. Đức Giáo Hoàng lại phải đứng ra can thiệp một lần nữa, để cứu dân thành khỏi bị tàn sát phá hại…

Chính vì những việc làm cả thể ích lợi trong đạo ngoài đời đó, mà thánh nhân được mọi người gọi là Lê-ô Cả. Ngài qua đời ngày 10 tháng 11 năm 46 tại Rô-ma, và được tôn phong tiến sĩ Hội thánh năm 1754.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Giáo Hoàng Lê-ô Cả, hằng ngày giúp mọi người tuân giữ đức tin chân chính và tông truyền, đồng thời lo cho đồng bào đồng loại tránh khỏi mọi tai họa khốn khổ.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã xây dựng Hội thánh Chúa trên nền tảng vững chắc là các tông đồ, khiến cho sức mạnh của ác thần không tài nào thắng nổi.

Xin nhậm lời thánh Giáo Hoàng Lê-ô nguyện giúp cầu thay, mà cho Hội thánh luôn giữ vững chân lý và được vui hưởng thái bình.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 11 tháng 11

THÁNH MÁC-TI-NÔ

Giám Mục

* Gương Thánh nhân

Thánh Mác-ti-nô sinh năm 316, tại Pan-nô-ni, nước Hun-ga-ri, trong một gia đình ngoại giáo; nhưng chính Thánh nhân lại mến mộ đạo Chúa, nên lớn lên đã ghi tên vào sổ dự tòng ở một họ đạo gần đó, mặc dầu bị gia đình chống đối mãnh liệt.

Năm lên 15 tuổi, thánh nhân bị bắt quân dịch. Ngài bị sung vào đạo binh Rô-ma và phục dịch tại xứ Gôn (nước Pháp ngày nay). Đây là nơi sau nầy ngài sẽ rao giảng Tin mừng.

Sống trong quân ngũ, thánh nhân phải gần gũi với đủ thứ hạng người, phần đông họ là những thanh niên ham vui chơi phóng đãng, rượu chè be bét. Ngài không những chẳng chạy theo họ, mà còn luôn làm gương tốt cho họ, có dịp thì khuyên bảo họ theo đường ngay nẻo chánh. Đặc biệt ngài có lòng bác ái yêu thương anh em, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người.

Một hôm ngay mùa đông trên đường đi công tác, thánh nhân gặp ngay ở cổng thành A-mi-en một người ăn xin trần trụi, lạnh run lặp cặp. Ngài liền nhớ lại câu Chúa nói: “Ta trần trụi, các ngươi đã cho áo mặc”.

Đến gần người đó, ngài nói:

- Tôi không có tiền bạc, chỉ có áo quần và khí giới.

Nói xong thánh nhân rút kiếm ra, xẻ đôi chiếc áo choàng đang mặc, và trao cho người ăn mày một nửa.

Tương truyền đêm hôm đó trong giấc ngủ, thánh nhân thấy Chúa Giê-su choàng nửa chiếc áo ngài cho người ăn mày hôm qua và nói:

- Đây là chiếc áo Mác-ti-nô đã cho Ta.

Năm 20 tuổi, thánh nhân lãnh Bí tích Rửa tội. Và 2 năm sau thì xin được giải ngũ, trở về gia đình. Ngài ao ước cho cha mẹ ngài trở lại đạo, và cầu nguyện xin Chúa. Chúa nhậm lời cho mẹ ngài theo đạo, còn cha ngài thì từ chối.

Thánh nhân nghe danh tiếng thánh Hi-la-ri-ô thì đem lòng mộ mến, ngài đã đến xin được chỉ giáo. Và năm 361, ngài đã thành lập tại Li-gu-gê một tu viện, đây là tu viện đầu tiên ở xứ Gôn, nước Pháp.

Từ đó, lòng đạo đức thánh thiện của thánh nhân ngày càng triển nở sâu đậm. Cầu nguyện, hãm mình, ép xác hằng ngày là lẽ sống của ngài. Vì lòng nhân đức tột bậc, ngài được Chúa chọn làm Giám mục giáo phận Tua năm 371. Trong suốt thời gian làm Giám mục, ngài luôn nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên, củng cố hàng giáo sĩ, chỉnh đốn các tu viện. Năm 375, chính ngài lập thêm tu viện ở gần sông Loa, đây là trung tâm văn hóa và truyền giáo của ngài.

Có thể nói thánhMác-ti-nô là một Giám mục truyền giáo. Ngoài ra việc chăm sóc giáo phận, huấn luyện các tu sĩ, thánh nhân rảo khắp các làng mạc thành thị, rao giảng đạo Chúa. Ngài đến hầu hết các nơi trong xứ Gôn (nước Pháp), không một làng nào, thành nào mà chẳng được ngài loan báo Tin mừng Nước Trời. Và ngài đã đem được nhiều linh hồn về cho Chúa.

Nhưng đời sống con người có hạn, ai ai cũng phải đi đến cõi chết. “Thánh Mác-ti-nô thấy trước cái chết của minh từ lâu, và ngài nói với anh em rằng: ngày thân xác mình phải tiêu tan đã gần. Bấy giờ có một sự kiện khiến ngài phải đi viếng giáo phận Con-đa-si; hàng giáo sĩ ở đó bất thuận với nhau, ngài biết giờ chết của mình, nên vì muốn tái lập lại sự hòa thuận, nên ngài vẫn quyết định lên đường, hy vọng đạt được đỉnh trọn lành của các nhân đức, nếu có thể tái lập và để sự bình an lại cho Hội thánh”.

“Vậy sau một thời gian ở lại thị trấn đó, đúng hơn là nơi giáo phận mà ngài đã đến, ngài đã hòa giải được các giáo sĩ với nhau, và khi định trở lại tu viện thì bỗng nhiên ngài thấy mình không còn đủ sức nữa, ngài liền gọi anh em đến và cho biết ngài kiệt sức rồi…”

“Ôi con người tuyệt diệu không chịu khuất phục trước lao nhọc, và cũng không chịu khuất phục trước cái chết; không để mình nghiêng ngả về bên nào; không sợ chết thì không ngại sống. Ánh mắt và đôi tay ngài luôn hướng về Thiên Chúa, không để tinh thần bất khuất mình ngơi cầu nguyện…”

Thánh nhân qua đời ngày 8 tháng 11 năm 397 và được mai táng tại giáo phận Tua. Ngài đã được tôn phong Hiển thánh.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Mác-ti-nô Giám mục, hằng ngày dùng lời cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình, cầu cho kẻ tội lỗi và người ngoại đạo trở về cùng Chúa, và hết lòng lo cho mọi người tin theo Chúa được hòa thuận thương yêu nhau.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, xưa thánh Giám mục Mác-ti-nô đã làm vinh danh Chúa, khi còn sống cũng như lúc qua đời.

Nay xin Chúa cũng ban cho chúng con những hồng ân kỳ diệu, để dù chết, chúng con chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 12 tháng 11

THÁNH GIO-SA-PHÁT

Giám Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Thánh Gio-sa-phát sinh tại Vla-đi-mia, nước Ba-lan, năm 1581, trong một gia đình quí phái làm nghề thương mại.

Lớn lên thánh nhân làm phụ giúp một thương gia ở Quin-na. Nhưng ngài cảm thấy lý tưởng đời ngài là phục vụ Chúa và cứu vớt các linh hồn, vì mọi sự ở đời đều mau qua chóng mất, chỉ có Chúa mới tồn tại, chỉ có phần rỗi linh hồn mới xứng đáng mọi người kiếm tìm hơn hết. Ngài cầu xin Chúa soi sáng cho ngài phải chọn đường nào, và sau cùng đã xin gia nhập dòng thánh Ba-si-li-ô.

Nhờ nhân đức và đời sống thánh thiện, năm 1614, thánh nhân được chọn làm bề trên nhà dòng. Ngài tận tụy đào luyện các tu sĩ và luôn nêu gương khắc khổ cầu nguyện cho họ. Nhờ đó, nhà dòng ngày càng phát triển, các tu sĩ ngày càng thêm nhân đức trọn lành.

Danh tiếng thánh nhân lan rộng nên năm 1617, ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục phụ tá cho Tổng Giám mục ở Pô-lô, và năm sau lên kế vị.

Từ ngày lên làm Tổng Giám mục, thánh nhân càng nổ lực sống khắc khổ nhiệm nhặt hơn, để nêu gương cho hàng giáo sĩ, các tu sĩ và đoàn chiên. Đặc biệt ngài dồn hết sức lực vào công việc hiệp nhất trong Hội thánh. Vì lúc đó các Ki-tô hữu phần đông theo nghi thức By-xăn-tin. Thánh nhân dùng sách vở và lời giảng dạy kêu gọi mọi người trung thành với Hội thánh Chúa sáng lập, tuân theo phụng vụ Rô-ma. Nhưng có số người phản đối. Ngài cương quyết giữ vững lập trường hiệp nhất, thế nên họ thù ghét ngài, tìm cách ám hại ngài.

Năm 1623, trên đường đi thăm mục vụ trong tổng giáo phận, thánh nhân bị một đám người thuộc nhóm ly khai giết chết cách dã man. Xác ngài được đưa về chôn cất tại Pô-lô. Và năm 1867, thánh nhân được tôn phong Hiển thánh với thành tích bảo vệ hiệp nhất trong Giáo hội. Chính Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 11 đã ngợi khen ngài:

“Theo kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa thì Hội thánh đã được thiết lập để vào thời viên mãn sẽ trở thành như một đại gia đình bao gồm tất cả nhân loại. Và chúng ta biết rằng: cùng với các dấu hiệu khác nói lên đặc tính của mình, Hội thánh được nhận thức nhờ ở sự hiệp nhất đại kết”.

“Thật vậy, khi Đức Ki-tô phán bảo các tông đồ: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta, vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân (Mt. 28, 18-19), thì không những Người trao cho họ sứ mạng Người đã lãnh nhận nơi Chúa Cha, mà hơn nữa, Người còn muốn cộng đoàn tông đồ hiệp nhất, các phần tử phải liên kết với nhau bằng một sợi dây đôi thật khắng khít; bên trong là nhờ một đức tin và nhờ đức ái mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng chúng ta (Rm. 5,5), còn bên ngoài là nhờ quyền bính của một người duy nhất trên tất cả, vì Đức Ki-tô đã đặt Phê-rô làm thủ lãnh các tông đồ, làm như một nguyên lý vĩnh viễn và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất, nhưng để cho sự hiệp nhất và hòa hợp nầy được mãi mãi tồn tại. Thiên Chúa quan phòng đã hiến thánh chúng bằng dấu hiệu của sự thánh thiện và tử đạo”.

“Vinh dự đó cũng đã được ban cho thánh Gio-sa-phát, Tổng Giám mục Pô-lô-xơ, thuộc nghi lễ đông phương La-vô-ni-a, chúng ta thật có lý để coi ngài như cột trụ thời danh và cao cả, nhất là miền ấy. Quả vậy, khó tìm được người nào mang lại vinh dự cho dòng giống Xơ-la-vơ và đã tiếp tục làm được cho phần rỗi của dân Người hơn là Vị mục tử và là tông đồ của họ. Nhất là vì ngài đã đổ máu đào để hiệp nhất Hội thánh, ngài cảm thấy Chúa linh ứng thúc đẩy hoạt động để tái lập sự hiệp nhất của Hội thánh khắp hoàn cầu; ngài hiểu có thể cộng tác vào đó nhiều, nếu duy trì nghi thức Đông phương Xô-la-vơ và dòng thánh Ba-xi-li-ô trong sự hiệp nhất và Hội thánh phổ quát”.

* Quyết tâm
Suốt đời sống trung thành với Hội thánh Chúa, và đem hết tài năng sức lực hiệp cùng mọi người thiện chí, cổ động và cầu nguyện cho mọi người hiệp nhất nên một ràn chiên và một chủ chăn, theo gương thánh Gio-sa-phát.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giám mục Gio-sa-phát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.

Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng con hằng biết noi gương Người, không ngại xả thân vì anh em.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 14 tháng 11

* THÁNH TÊ-PHA-NÔ THỂ

Giám Mục Thừa Sai Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

“Tây dương Đạo trưởng Thể đã lẫn lút ở trong nước ta trên 30 năm. Hắn đã giảng đạo tà, lừa dối dân gian. Khi bị bắt điều tra, hắn đã cung khai hết mọi tội lỗi. Theo luật triều đình, lẽ ra phải chém đầu hắn, bêu lên giữa chợ cho quần chúng biết. Nhưng vì hắn đã chết trong tù, ta truyền phải quăng xác hắn xuống sông”

Đó là bản án vua Tự Đức kết tội Đức cha Thể. Bản án đó chứng minh hùng hồn công trạng truyền giáo suốt 32 năm của vị Tông đồ Chúa, trên quê hương đất nước chúng ta. Vô tình nhà vua đã nêu cao tấm gương hy sinh anh dũng của vị Giám mục thừa sai nầy cho muôn thế hệ.

Tê-pha-nô Thể sinh ngày 08 tháng 02 năm 1802 tại nước Pháp. Cha mẹ nghèo lại đông con, cậu phải nhờ bà con giúp đỡ mới đi học được. Nhưng Chúa lại thương kẻ bần cùng. Người kêu gọi cậu giúp việc Người. Và như các thánh tông đồ xưa, cậu đã sẵn sàng nghe tiếng Chúa, xin vào chủng viện, tu luyện học hành. Sau thời gian kiên tâm chịu khó tu học, ngày 24 tháng 09 năm 1825, thầy Tê-pha-nô được lãnh Bí tích Truyền chức Thánh, làm Linh mục của Chúa.

Ý Chúa muốn cha đem Chúa đến cho những người ở phương xa, nên năm 1827, cha xin gia nhập Hội Thừa sai Pa-ri, và được gởi sang Việt Nam .

Ngày 02 tháng 05 năm 1829, vị Linh mục hăng say truyền giáo đã đến chủng viện Lái Thiêu, học tiếng, chọn tên Việt Nam là Thể, đồng thời giúp dạy các chủng sinh. Cha giảng dạy ở đây mới được bốn năm thì vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc, bắt bớ các linh mục, giết hại các tín hữu. Đức Cha Từ và cha Thể cùng một số Linh mục, chủng sinh phải di tản qua Thái Lan. Nhưng sau một thời gian, Đức Cha thấy cần phải có người hướng dẫn các Linh mục cũng như giáo hữu ở Việt Nam trong cơn bách hại khốn khổ. Ngài truyền chức Giám mục cho cha Thể và yêu cầu cấp tốc trở lại Việt Nam .

Giữa cơn bách hại khốc liệt, vị tân Giám mục là nguồn an ủi khích lệ lớn lao cho mọi người. Ngài viết thơ gởi đi khắp nơi, kêu gọi khuyến khích giáo sĩ cũng như giáo dân giữ vững đức tin, can đảm trung thành với Chúa. Ngài cho người tìm kiếm các nữ tu Mến Thánh giá đang ẩn trốn, trở lại giúp các họ đạo, đồng thời nhờ một số cha chiêu mộ và đào tạo các thầy giảng, để rồi ngài phong chức Linh mục cho họ. Vì ngài ý thức rõ: nếu thiếu chủ chăn, đàn chiên sẽ tan rả…

Dù vậy, ngài thấy vẫn còn thiếu người cộng tác, giúp lo cho giáo dân. Năm 1841, ngài tổ chức Công đồng Gò Thị, gồm ba thừa sai và 13 Linh mục người Việt Nam trong giáo phận Đàng Trong, bàn về việc đào tạo thêm số Linh mục bản xứ. Qua cuộc thảo luận, ngài thấy mở chủng viện rất khó khăn, không thể thực hiện được trong lúc cấm đạo. Ngài nhờ mỗi Linh mục chọn một số em, gởi qua Pê-năng học, rồi trở về chịu chức Linh mục và làm việc tông đồ. Nhờ tổ chức như thế, giáo phận ngày càng tăng thêm số Linh mục phục vụ giáo dân, và rao truyền đạo Chúa cho lương dân. Số người trở lại đạo mỗi năm một thêm đông, cả đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nhiều người nhận được Tin mừng.

Giữa lúc công cuộc truyền giáo đang phát triển tốt đẹp như thế, thì năm 1861, vua Tự Đức ra chiếu chỉ Phân sáp, bắt đạo hết sức gắt gao. Đức Cha phải trốn ẩn nhà nầy sang nhà khác. Ngày 24 tháng 10, ngài đang ẩn ở nhà bà Ma-đa-lê-na Lựu thì quân lính đến bao vây. Ngài vội vã trốn xuống hầm, nhưng không kịp cất giấu đồ lễ. Quân lính thấy tang vật đó, bắt buộc bà Lựu phải đem nộp Tây dương Đạo trưởng, bằng không chúng sẽ phá nhà, đánh mọi người cho chết. Cả nhà đều bị tra tấn dữ dội, nhưng không ai chịu khai nộp Đức Cha. Thấy thế, Đức Cha không thể cầm lòng được; ngài không đành để cho con chiên phải hành khổ vì mình, ngài ra nộp mình. Vừa thấy ngài, quân lính ùa tới bắt trói, nhốt vào củi, rồi bắt luôn bà Lựu, hai chú giúp lễ và mấy người lân cận.

Bị nhốt trong củi chật hẹp, Đức Cha phải ngồi co ro một chỗ suốt mấy tuần lễ hết sức khổ nhọc, phần ngài bị bệnh kiết lỵ nên kiệt sức, thở hơi cuối cùng ngày 14 tháng 11 năm 1861. Quan trấn thủ Bình Định truyền đem ngài đi chôn. Nhưng sau đó, triều đình lại gởi bản án đến ghi rõ:

“Tây dương Đạo trưởng Thể đã lẫn lút ở trong nước ta trên 30 năm. Hắn đã giảng đạo tà, lừa dối dân gian. Khi bị bắt điều tra, hắn đã cung khai hết mọi tội lỗi. Theo luật triều đình, lẽ ra phải chém đầu hắn, bêu lên giữa chợ cho quần chúng biết. Nhưng vì hắn đã chết trong tù, ta truyền phải quăng xác hắn xuống sông.”

Chiếu theo bản án đó, quan trấn thủ cho đào mồ ngài lên, ném thi hài ngài xuống sông.

Ngày 02 tháng 05 năm 1909, Đức Thánh Cha Pi-ô 10 tôn phong ngài lên Chân phước. Và Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô 2 suy tôn ngài lên Hiển thánh.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Giám mục Tê-pha-nô Thể tử đạo, hết lòng lo mở mang Nước Chúa, nhất là mời gọi nhiều người dâng mình giúp việc Chúa, đào tạo các trẻ trong gia đình và họ đạo nên tông đồ của Chúa.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 15 tháng 11

THÁNH AN-BÊ-TÔ CẢ

Giám Mục Tiến Sĩ

* Gương Thánh nhân

Thánh An-bê-tô sinh tại Lau-in-gen, nước Đức, năm 1206, trong một gia đình quý tộc theo binh nghiệp.

Lớn lên, thánh nhân học hành giỏi giắn thông minh. Ngài thông biết hết các môn khoa học phần đời cũng như thần học trong đạo, xứng danh là nhà trí thức thời danh vào thế kỷ 13. Ngài được Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 12 đặt làm thánh bổn mạng của các nhà nghiên cứu khoa học.

Năm 16 tuổi, nhân dịp đến Bô-lon trau dồi thêm kiến thức, thánh nhân được gặp Chân phước Gióc-đi-nô dòng Thánh Đa-minh. Nhờ trao đổi với vị Chân phước, ngài cảm thấy Chúa muốn ngài đem tài học vấn để phục vụ Hội thánh. Thế là năm 1223, ngài xin gia nhập dòng Đa-minh tại Sát-xa.

Từ đó, thánh nhân miệt mài học hỏi môn thần học, Kinh Thánh và tu đức, đồng thời tập rèn nhân đức. Nhờ nắm vững kiến thức về khoa học và triết học, ngài đem áp dụng vào các môn học thánh, ngài là người đầu tiên đã Ki-tô-hóa lý thuyết của A-rít-tốt, Pla-ton, là những triết gia nổi tiếng nhất thời đó. Có thể gọi ngài là tổ phụ của thần học Kinh viện.

Vì tài đức nổi bật như thế, thánh nhân luôn được mời dạy trong các trường đại học ở Đức, ở Pháp. Học trò xuất sắc của ngài là thánh Tô-ma A-qui-nô, một nhà thần học trứ danh trong Hội thánh. Thánh Tô-ma đã theo học với ngài tại Cô-lon, từ năm 1248 đến năm 1252.

Uy tín của thánh nhân ngày càng lan rộng, tài năng của ngài ngày càng phát triển, đến nổi để chấm dứt các cuộc tranh luận, người ta chỉ cần dựa vào lời “Thầy An-bê-tô đã nói như thế” thì mọi người đều tuân phục, không ai còn dám tranh cãi gì nữa.

Đúng thật thánh nhân là một nhà trí thức lỗi lạc. Giáo huấn của ngài thật cao siêu uyên bác. Các tác phẩm ngài viết rất dồi dào tư tưởng thần học cũng như triết học. Chẳng hạn khi chú giải về Tin mừng theo thánh Lu-ca, nói về Bí tích Thánh Thể, ngài đã viết: “Các con hãy làm việc nầy để nhớ đến Ta” (Lc. 22,19). Trong câu nầy có hai điều đáng ghi nhận: Thứ nhất là mệnh lệnh phải thực hành Bí tích nầy, đó là điều Người ám chỉ khi bảo: Các con hãy làm việc nầy. Thứ đến, đây là việc kính nhớ cuộc ra đi chịu chết vì chúng ta…”

Năm 1254, thánh nhân được chọn làm Bề trên tỉnh Dòng nước Đức. Trong nhiều năm liên tiếp, ngài thăm viếng các nhà dòng, điều chỉnh những sai sót, huấn luyện các tu sĩ, lập thêm nhiều nhà mới.

Vừa củng cố lại được tỉnh Dòng thì năm 1260, Đức Giáo Hoàng đặt thánh nhân làm Giám mục giáo phận Ra-tít-bon. Ngài vâng lời, lãnh trách vụ hai năm, rồi xin từ chức trở lại nhà dòng, sống đời âm thầm cầu nguyện, dạy dỗ hướng dẫn các tu sĩ. Dù vậy nhiều lần Đức Giáo Hoàng cũng nhờ ngài phụ giúp những việc hữu ích khác trong Giáo hội, như dàn xếp các cuộc tranh chấp, tham dự công đồng Ly-on, bênh vực giáo thuyết của học trò ngài là Tô-ma A-qui-nô…

Thánh nhân qua đời năm 1280, Đức Thánh Cha Pi-ô thứ 10 tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1931. Và năm 1942, Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 12 đã nâng ngài lên Tiến sĩ Hội thánh.

* Quyết tâm
Noi gương thánh An-bê-tô Cả, hằng ngày lo học biết những điều cần thiết trong đạo cũng như ngoài đời, để giúp việc Chúa và mở mang đạo thánh.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho Thánh Giám mục mà chúng con mầng kính hôm nay xứng danh là An-bê-tô Cả, vì đã tìm phối hợp kiến thức loài người với chân lý mặc khải.

Xin cho chúng con biết thụ giáo với thánh nhân, để càng tiến bộ về khoa học, chúng con càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 16 tháng 11

THÁNH NỮ MA-GA-RI-TA

Tô-Cách-Lan

* Gương Thánh nhân

Thánh nữ Ma-ga-ri-ta sinh khoảng năm 1045, tại Rết-đa nước Hun-ga-ri, cha người là hoàng tử nước Anh bị lưu đày, và đã cưới công chúa người Đức mà sinh ra ngài. Vì thế, năm lên 12 tuổi, ngài cùng cha mẹ trở lại nước Anh. Nhưng năm 1066, cả gia đình lại bị lưu đày một lần nữa, song họ đã trốn sang Tô-cách-lan.

Vua Tô-cách-lan lúc đó tên là Man-con, thấy Ma-ga-ri-ta thì đem lòng thương mến và xin cưới làm vợ. Đây là một cuộc hôn nhân khá đặc biệt, vì Ma-ga-ri-ta là một thiếu nữ hiền lương đạo hạnh, và Man-con là một vị vua hung tợn và phần nào kém giáo dục. Nhưng cuộc tình duyên cũng êm đẹp, nhờ thánh nữ khéo hướng dẫn chồng mình theo đàng ngay lẽ phải.

Thánh nữ gây được nhiều ảnh hưởng tốt đẹp cho chồng: từ một vị vua hung hăng bạo ngược, không kể Chúa bà thần thánh là gì, ông ta trở lại sống nhân đạo cao thượng, sẵn sàng cho người vợ thực hành việc đạo đức, đồng thời cộng tác trong các công cuộc từ thiện của bà. Nhờ đó thánh nữ được tự do thực hiện lý tưởng nhân đức thánh thiện. Đối với bản thân, ngài rất nhiệm nhặt khổ hạnh; nhưng đối với tha nhân, thánh nữ rất dễ dãi rộng rãi. Ngài đem hết của cải giúp đỡ người nghèo, chăm sóc bệnh nhân, nuôi dưỡng người già yếu cô thân. Được sự đồng tình của chồng, ngài xây dựng nhiều bệnh viện, nhà dưỡng lão, trại tế bần.

Ngoài ra thánh nữ còn đẩy mạnh việc giáo dục, phát triển văn hóa. Ngài cho mở trường dạy học khắp nước, giúp học phí cho học sinh nghèo, khuyến khích các gia đình nghèo cho con cái tới trường học tập. Thánh nữ còn tổ chức các cuộc thi cử, chiêu mộ người tài năng đức hạnh vào giúp việc triều đình.

Công việc thánh nữ lưu tâm nhất là mở mang đạo Chúa. Ngài mời nhiều nhà giảng thuyết đến trong nước, nhờ họ rao giảng Tin mừng khắp nơi, đem nhiều người trở lại đạo. Và nhờ ngân sách triều đình, ngài xây cất nhiều nhà thờ nhà hội. Đặc biệt thánh nữ đã thành công trong việc đem phụng vụ Rô-ma vào Giáo hội Tô-cách-lan.

Thánh nữ qua đời ngày 16 tháng 11 năm 1093, và được phong thánh năm 1251.

* Quyết tâm
Xin cho những người làm vợ làm chồng biết thương yêu giúp đỡ nhau tiến tới trên đàng nhân đức, và phụ giúp nhau mở mang Nước Chúa, theo gương thánh nữ Ma-ga-ri-ta.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ma-ga-ri-ta nên tấm gương sáng ngời, vì đã hết lòng thương yêu người nghèo khó.

Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con biết ăn ở thế nào, để khi nhìn vào đời sống của chúng con, mọi người đều nhận ra tình thương của Chúa.

Chúng con cầu xin…
 

THÁNH GHÊ-TƠ-RÚT

Trinh Nữ

* Gương Thánh nhân

Thánh Ghê-tơ-rút là vị thánh nữ nổi tiếng, nên được gán cho biệt hiệu là “Cả”. Ngài sinh năm 1256 tại Tu-rin-gen, nước Đức.

Lên 5 tuổi, thánh nữ được cha mẹ gởi vào tu viện thánh Bê-nê-đi-tô để học tập và tập rèn nhân đức. Với trí thông minh sáng suốt, ngài học rất mau tấn phát. Nhưng vì quá ham mê trau dồi văn chương chữ nghĩa mà ngài xao lảng các việc đạo đức, những giờ đọc kinh cầu nguyện. Trong một thị kiến, ngài thấy Chúa Giêsu phàn nàn trách móc điều đó, nên ngài hối hận và thưa với Chúa: “Con hết lòng cảm tạ lượng từ bi vô biên của Chúa; cùng với lượng từ bi đó, con ca tụng lòng kiên nhẫn lâu dài đã khiến Chúa nhắm mắt làm ngơ cho con. Trong những năm thơ ấu và thiếu thời, lúc tuổi hoa niên và thanh xuân, hầu như cho đến năm 25 tuổi, con đã sống ngu dại mù quáng. Thật vậy, bây giờ con mới nhận ra rằng con đã có thể chiều theo bản năng trong mọi sự và bất cứ nơi nào, trong tư tưởng, lời nói cũng như hành vi, mà không cảm thấy lương tâm cắn rứt chút nào. Nhưng Chúa đã gìn giữ con bằng cách cho con tự nhiên ghê tởm điều ác và ham thích điều thiện…”

Từ đó thánh nữ lo làm các việc thiêng liêng siêng năng sốt sắng hơn, đồng thời lo học hỏi suy niệm Lời Chúa trong Thánh Kinh, và tác phẩm các giáo phụ và các nhà thần học. Nhờ đó, lòng đạo đức của thánh nữ không những chẳng sa sút, mà còn triển nở ngày một hơn. Đặc biệt ngài mộ mến tôn sùng Trái Tim Chúa Giê-su và Bí tích Thánh Thể, ngài suy niệm về Tình yêu bao la của Chúa và quỳ cầu nguyện trước nhà tạm nhiều giờ mỗi ngày.

Từ năm 1281, thánh nữ đuợc Chúa ban ơn nhiệm hiệp thần bí, ngài được Chúa nói cho biết nhiều điều nhiệm lạ về Bí tích Thánh Thể và Thánh Tâm Chúa Giê-su. Ngài giữ kín các thị kiến đó đến năm 1289 mới thố lộ cho mọi người biết.

Thánh nữ từ trần ngày 17 tháng 11 năm 1302.

* Quyết tâm
Noi gương thánh nữ Ghê-tơ-rút, tôi mộ mến tôn sùng Bí tích Thánh Thể và Thánh Tâm Chúa Giê-su là nguồn mạch tình yêu.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã làm cho tâm hồn thánh Ghê-tơ-rút đồng trinh nên cung điện xứng đáng cho Chúa ngự.

Vì lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin xua đuổi bóng tối ra khỏi lòng chúng con, để chúng con hằng được vui mầng cảm thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong cuộc đời chúng con.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 17 tháng 11

THÁNH NỮ Ê-LI-SA-BÉT

Hun-Ga-Ri

* Gương Thánh nhân

Thánh Ê-li-sa-bết sinh năm 1207, là con của vua An-rê thứ 2, nước Hun-ga-ri. Ngài đã được hưởng giàu sang chức tước ở đời, nhưng cũng phải gặp nhiều gian nan thử thách.

Lên 4 tuổi, theo phong tục thời đó, thánh nữ đã được cha mẹ đính hôn với hoàng tử Lu-y miền Tu-rin-gen, và năm 14 tuổi, ngài đã thành hôn với Lu-y, lúc đó đã lên ngôi vua.
Hai vợ chồng chung sống thật hạnh phúc, và cùng nhân đức sốt sắng, cùng chung lý tưởng bác ái yêu người.

Đặc biệt thánh nữ rất thương người nghèo khổ bệnh tật. Ngài thương yêu chăm sóc họ như lo cho Chúa. Có thể nói ngài coi họ như Chúa Giê-su. Chính Linh mục Con-ra-đô là cha linh hướng của ngài đã minh chứng: “Ê-li-sa-bết bắt đầu nổi tiếng nhân đức. Suốt đời bà đã là người an ủi những người nghèo khó; nhưng bây giờ bà hoàn toàn bắt đầu trở thành vị cứu tinh của kẻ đói ăn. Bà ra lệnh xây cất một bệnh viện gần một lâu đài của mình; và tại đó, bà đã đón nhận nhiều người đau đớn và tàn tật; bà đã làm các việc từ thiện một cách quảng đại, đối với tất cả mọi người đến xin của bố thí ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộcquyền cai trị của chồng bà; bà đã phát hết hoa lợi do bốn hầu quốc của chồng bà cống hiến, đến nỗi sau cùng phải bán cả trang sức và y phục quý giá để giúp người nghèo”.

“Bà có thói quen mỗi ngày 2 lần, sáng và chiều đích thân đến thăm hỏi tất cả những bệnh nhân của bà, cũng như đích thân săn sóc những kẻ ghê tởm nhất trong bọn họ, cho họ ăn, giúp họ ngủ, cõng họ đi, cùng làm nhiều việc nhân đạo khác. Tất cảnhững việc nầy không làm phật ý chồng bà chút nào. Ông cũng là người đáng ghi nhớ…”

Trong số những người bệnh tật, thánh nữ thương mến các kẻ bị bệnh phong cùi hơn hết. Hằng ngày thánh nữ chăm sóc họ, lau rửa các vết lở loét cho họ. Ngài săn sóc cách riêng một trẻ nhỏ bị cùi trong nhà, đặt nằm ngay trên giường của Ngài…

Nhưng Chúa thường cho những kẻ Người thương được vác khổ giá với Người, để họ nên giống Người hơn, nhất là để cho họ được xứng đáng thông phần vinh hiển với Người. Năm 1227, chồng ngài đi chiến đấu bảo vệ Thánh Địa với Đạo Binh Thánh giá đã bị tử trận. Nghe tin như sét đánh!... Ngài đau khổ như muốn điên lên!... Nhưng rồi thánh nữ cũng chấp nhận hy sinh, sẵn lòng vâng theo Thánh ý.

Đau khổ mất chồng chưa kịp nguôi, thì gian nan khác dồn dập trút xuống thánh nữ ! Người em trai của chồng ngài lên chiếm ngôi vua, đuổi ngài và các con ra khỏi hoàng cung, lại cấm dân chúng không cho ngài trú ngụ. Ngài phải dẫn con đi lang thang rày đây mai đó, tá túc trong chuồng nuôi súc vật, hằng ngày đi ăn xin để nuôi con…

Khốn khổ tột cùng, nhưng thánh nữ cũng một lòng tin tưởng phó thác.

Song Chúa không bỏ kẻ kiên tâm vững dạ trông cậy Người. Khi đoàn Thập Tự Chinh trở về, họ bắt buộc em chồng ngài phải trả ngôi vua lại cho cháu là con của ngài. Thế là thánh nữ được khải hoàn trở lại hoàng cung, triều thần đón rước long trọng, dân chúng nhiệt liệt hoan nghênh…

Nhưng ngài không màng tới những bả danh vọng phù hoa đó. Ngài từ bỏ tất cả, đến sống trong một căn nhà lụp xụp gần tu viện thánh Phan-xi-cô, và xin nhập Dòng Ba, sống trọn đời hy sinh vì Chúa vì người nghèo, như lời Cha linh hướng của ngài nói: “Trước lúc bà chết, tôi đã giải tội cho bà. Tôi hỏi bà định thế nào về tài sản và động sản của bà, bà trả lời rằng tất cả những gì bà có thì thuộc về người nghèo và bà xin tôi phân phát tất cả cho họ, trừ chiếc áo dài tồi tàn mà bà vẫn mặc, và bà muốn được khâm liệm với chiếc áo dài đó. Sắp đặt xong mọi việc, bà đã rước Mình Thánh Chúa; và cho đến giờ kinh chiều, bà năng nói về những điều hay nhất mà bà đã nghe được trong các bài giảng, rồi rất sốt sắng, bà phó mọi người xung quanh cho Chúa và trút hơi thở cuối cùng một cách êm ái như ngủ đi vậy…”

Đó là ngày 17 tháng 11 năm 1231. Và năm 1235, Đức Thánh Cha Ghê-gô-ri-ô thứ 9 đã tôn phong thánh nữ lên hàng Hiển thánh.

* Quyết tâm
Hằng ngày sống theo thánh ý Chúa, sẵn sàng chịu mọi sự gian nan thử thách ở đời, và hết lòng thương yêu giúp đỡ người nghèo khổ bệnh tật, theo gương thánh nữ Ê-li-sa-bết Hun-ga-ri.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nữ Ê-li-sa-bết biết nhận ra và tôn kính Đức Ki-tô nơi người nghèo khổ.

Xin nhận lời thánh nữ chuyển cầu, mà ban cho chúng con luôn hết lòng mến yêu phục vụ những ai đang lâm cảnh khốn cùng.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 19 tháng 11

CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG

THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ

Vì lòng mộ mến các thánh tử đạo, các tín hữu thường xuyên lui tới kính viếng và cầu nguyện nơi phần mộ của các ngài, đặc biệt nhất là phần mộ của hai thánh Tông đồ Cả Phê-rô và Phao-lô. Trong số những kẻ kính viếng đó, có cả hoàng đế Công-tăn-tin. Sau khi gia nhập đạo Công giáo, ngài năng lui tới kính mộ thánh Phê-rô và thánh Phao-lô. Và để giúp cho mọi người có nơi cầu nguyện, đồng thời cũng để tỏ lòng tôn kính hai vị thánh tông đồ, năm 362 ngài khởi công xây cất thánh đường kính Thánh Phê-rô trên phần mộ của thánh nhân. Thánh đường nầy đã được nới rộng năm 1506, và Đức Giáo Hoàng U-ba-nô thứ 8 cung hiến ngày 18 tháng 11 năm 1626.

Thánh Đường kính thánh Phao-lô cũng do hoàng đế Công-tăn-tin xây dựng, nhưng năm 1823 đã bị thiêu hủy gần hết do một cuộc hỏa hoạn. Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô thứ 16 đã cho tái thiết. Và Đức Thánh Cha Pi-ô thứ 9 cung hiến vào ngày 10 tháng 12 năm 1854.

Hôm nay Hội thánh mừng kỷ niệm ngày cung hiến hai thánh đường đó, để tỏ lòng tôn kính Thánh Phê-rô và Phao-lô đã nhiệt thành phụng sự Chúa, can đảm chịu chết vì Chúa, “trở nên hai hạt giống đặc biệt của Chúa, đã làm nảy sinh cả một miêu duệ đông đúc: đó là hàng ngàn thánh tử đạo đã muốn đua đòi bắt chước chiến thắng của các tông đồ, là cho giáo đô của chúng ta có cả một đoàn đông đảo những người mặc áo đỏ chói, chiếu sáng ra tận các miền xa xôi, và dường như đã kết trên đầu thành đô nầy một triều thiên vinh quang, lấp lánh những viên ngọc quí giá”.

“Dĩ nhiên chúng ta đã phấn khởi khi tưởng niệm tất cả các thánh, vì Thiên Chúa đã an bài để nêu cho chúng ta một tấm gương kiên nhẫn và củng cố niềm tin cho chúng ta. Nhưng nếu chúng ta có ca tụng địa vị ưu việt của hai vị tổ phụ một cách nồng nhiệt hơn, thì cũng là điều chính đáng; vì so với các chi thể khác trong Hội thánh, thì ơn Chúa đã nâng hai vị lên tới bậc cao cả, khác nào như hai con mắt trong thân thể mà Chúa Giê-su là đầu”.

Ngày lễ nầy cũng nhắc chúng ta nhớ lời Kinh Thánh nói về Đền Thờ là nhà cầu nguyện, là nhà Thiên Chúa, là nơi thánh, là hình ảnh Giê-ru-sa-lem trên trời và là cửa thiên đàng.

Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng Rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, tòa giảng giúp chúng ta lắng nghe Lời Chúa dạy bảo, bàn thờ là nơi Chiên Thiên Chúa hiến tế để xóa tội trần gian, nhà tạm là nơi Chúa Giê-su ẩn náu để gần gũi chúng ta và làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta. Kể cả những viên gạch xây dựng Đền Thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động làm nơi Thiên Chúa ngự trị, mỗi người phải lo trau dồi tâm hồn mình xứng đáng nên đền thờ của Chúa, như lời thánh Xê-da-ri-ô nói: “Anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta”.

* Quyết tâm
Hằng ngày lo giữ tâm hồn trong sạch tốt đẹp, và trang hoàng bằng những bông hoa việc lành phúc đức, để xứng đáng nên đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã đặt hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô làm những người khởi công rao giảng Tin mừng.

Xin cho Hội thánh luôn được các ngài bảo vệ và hằng được khắng khít với Chúa, để đức tin phát triển không ngừng cho đến ngày tận thế.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 20 tháng 11

* THÁNH PHAN-XI-CÔ NGUYỄN CẦN

Thầy Giảng Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Tấm gương sáng chói thánh Phan-xi-cô Cần để lại cho muôn đời, đó là lòng kiên nhẫn keo sơn gắn bó, chịu gian lao đau khổ theo Chúa bền đỗ: Ròng rã tám tháng tù ở Thanh Oai, đăng đẳng mười tháng ngục ở Hà Nội là cả những chuỗi ngày cực hình tra tấn đổ lên con người vị anh hùng đức tin nầy: cổ mang gông, tay chân xiềng xích, ngày đêm ở trong tù nực nồng thúi tha hôi hám, chưa kể những lần bị tra tấn, đánh đập, đau đớn. Trong một bức thư gởi về cho cha Liêu, ngài viết:

“Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi. Nhà tù thì chật hẹp, hôi hám, thúi tha…”

Giờ phút cuối cùng tại pháp trường Cầu Giấy, viên quan xử bảo lần chót:

- Hãy bước qua thập tự, anh có thể được cứu mạng sống.

Nhưng vị chiến sĩ Chúa quả quyết:

- Tôiđã dốc lòng theo Chúa đến chết. Quan cứ theo án mà thi hành.

Phan-xi-cô Nguyễn Cầu sinh năm 1803, tại xứ Sơn Miêng tỉnh Hà Đông. Ngay từ nhỏ, cậu đã ước ao dâng mình cho Chúa, nhưng vì mẹ già quá thương cậu, không muốn lìa xa, nên mãi đến lớn cậu mới vào trường học làm thầy giảng. Sau đó, thầy theo giúp Đức Cha Du và Cha Liêu ở họ đạo Kẻ Chuông. Ngày 19 tháng tư năm 1836, cha Liêu nhờ thầy đi mời cha Tuấn ở xứ Kẻ Bạc đến giảng tuần tĩnh tâm, chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Nhưng khi vừa đến nơi thì thầy bị quân lính bắt giải về huyện Thanh Oai và tống vào ngục.

Cha Liêu nghe tin thầy bị bắt thì hết lòng thương tiếc, nhờ người đem tiền đến chuộc. Nhưng quan đòi giá quá cao, không thể chuộc nổi. Hơn nữa, vì thầy muốn được hy sinh chịu chết vì Chúa, nên xin Cha và mọi người đừng bận tâm lo cho thầy, chỉ xin mọi người cầu nguyện cho thầy được bền đỗ chịu khổ vì Chúa đến cùng.

Trong tám tháng bị giam ở Thanh Oai, nhiều lần thầy phải chịu tra tấn đánh đòn, buộc đạp lên Thánh giá. Nhưng lần nào thầy cũng can đảm từ chối, quyết một lòng trung kiên theo Chúa. Có ngày thầy bị đánh cả đôi ba lần, mỗi lần từ 50 roi trở lên, như thầy đã nói trong thơ gởi cho cha Liêu. Càng bị đánh, càng đau đớn, thầy càng rán sức chịu đựng, để thông phần vào sự thương khó Chúa Giê-su, hiệp công cứu rỗi với Người.

Thấy không thể lay chuyển nổi lòng trung kiên của vị chứng nhân Chúa, quan cho giải về Hà Nội. Mười tháng tù ở đây là cả những chuỗi ngày cực hình thảm khốc. Ngày nào thầy cũng bị quân lính đánh đập tra khảo, bắt ép bước qua Thánh giá bỏ đạo. Nhưng thầy chẳng những không sợ roi đòn, không ngã lòng nản chí, mà còn cho đó là ơn Chúa thương ban, để thầy được vinh phúc đời sau. Trong bức thư thầy viết từ trại giam ở Hà Nội, thầy nói với Cha Liêu:

“Thưa Cha, con thấy nhiều người ngoài đời sẵn sàng chịu nhiều khổ cực gian nan để được giàu sang danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại bền đỗ chịu những hình khổ mau qua nầy, để được vinh hiển đời đời”.

Không kể gì thân mình, thầy còn giúp đỡ khích lệ các đồng đạo cùng bị tù ngục, kiên tâm giữ vững niềm tin. Ngoài ra thầy còn khuyên được nhiều tù nhân ngoại giáo theo đạo. Thầy đã dạy giáo lý và rửa tội cho họ.

Ngày 20 tháng 11 năm 1837, bản án của vua Minh Mạng đã về đến Hà Nội. Bản án ghi rõ:

“Tên Cần đã theo đạo Gia-tô, không chịu bước qua Thập giá, nay kết án xử giảo”.

Quân lính điệu vị anh hùng ra pháp trường Bảy Mẫu, vòng dây quanh cổ, siết chặt hai đầu dây đến lúc ngài tắt thở.

Đức Thánh Cha Lê-ô 13 suy tôn thầy lên Chân phước ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988. Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 đã tôn phong lên Hiển Thánh.

* Quyết tâm
Hằng ngày siêng năng giúp việc giảng đạo, và kiên tâm bền đỗ chịu khổ chịu cực vì Chúa cho đến chết, để hiệp công với Chúa cứu rỗi các linh hồn, và để được hưởng phước đời đời.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 21 tháng 11

ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ

Những cha mẹ đạo đức thường dâng con mình cho Chúa, trong lúc mang thai cũng như sau khi sinh. Đối với một số người Do-thái, họ có thói quen dâng con cho Chúa lúc chúng còn thơ ấu. Họ đem con đến Đền thờ, cho chúng ở lại đó phục vụ các tư tế trong việc phụng tự. Chúng ta gặp thấy nhiều cuộc dâng hiến như thế, như trường hợp của Sa-mu-en và nhiều vị thánh khác. Riêng Đức Ma-ri-a, Phúc âm không nói gì về thời thơ ấu của ngài, nhưng truyền thuyết bảo rằng lúc lên ba tuổi, cha mẹ đã đem dâng ngài trong đền thờ.

Hôm nay Hội thánh mầng ngày kỷ niệm Đức Mẹ dâng mình đó. Lễ nầy mới được Hội thánh công nhận và phổ biến rộng khắp vào thế kỷ 14. Việc Đức Mẹ dâng mình chắc chắn rất đẹp lòng Chúa, vì ngài đã được Vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai, vì Chúa đã định chọn Mẹ cưu mang và sinh Con của Ngài. Và Mẹ đã dâng mình cách trọn vẹn, trọn hảo.

Chính trong đền thờ, Mẹ chuẩn bị sứ mạng làm Mẹ Thiên Chúa. Mười hai năm trời Mẹ suy niệm, cầu nguyện, sống gần gũi thân mật với Chúa. Theo thánh Giê-rôm, chương trình sống một ngày của Mẹ ở trong đền thờ gồm có kinh nguyện, suy gẫm, học hỏi Lời Chúa, hát thánh vịnh. Mẹ làm các việc thiêng liêng đạo đức đó với cả lòng sốt sắng nhiệt thành, nêu gương cho mọi người khác.

Mẹ luôn lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, chính đó là điểm đặc sắc nhất của đời sống Mẹ. Theo thánh Au-tinh: “Thánh Mẫu Ma-ri-a đã thực hiện hoàn toàn ý định Chúa Cha, và vì thế, việc ngài được làm môn đệ Đức Ki-tô thì có giá trị hơn là việc được làm Mẹ Đức Ki-tô. Do đó, Đức Ma-ri-a thật diễm phúc vì đã mang Chúa trong lòng trước khi sinh ra Người”.

Như thế, chính Đức Ma-ri-a là Đền thờ của Thiên Chúa. Việc Mẹ dâng mình vào đền thánh là thể hiện ngôi Đền thờ sống động trong tâm hồn.

Chúng ta cũng thế, chúng ta là đền thờ sống động của Chúa, nên chúng ta biết noi gương Mẹ, dâng mình cho Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa hằng ngày trong đời sống.

* Quyết tâm
Noi gương Đức Mẹ, tôi dâng mình hằng ngày cho Chúa, hiến trọn đời sống tôi để làm theo ý Chúa, chăm chỉ lắng nghe và làm theo Lời Chúa dạy suốt đời.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con hợp mầng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vinh hiển.

Cúi xin Chúa nhận lời Người chuyển cầu, mà ban cho chúng con được dư đầy ơn phúc.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 22 tháng 11

THÁNH XÊ-XI-LI-A

Trinh Nữ Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Theo truyền thuyết, cuộc tử đạo của thánh Xê-xi-li-a xảy ra dưới thời hoàng đế A-lét-xăn Sê-vê-rô. Ngài là mẫu gương sáng ngời về đức trinh khiết và về lòng can đảm hy sinh vì Chúa.

Thánh nữ là con gia đình quí tộc Rô-ma. Trong gia đình, chỉ có mỗi mình ngài là Ki-tô hữu. Và ngay từ niên thiếu, ngài đã khấn giữ mình đồng trinh, dâng hiến trọn tình yêu cho Chúa và người nghèo khổ. Mỗi khi đến dự Thánh lễ tại các hang toại đạo, ngài luôn bố thí rộng rãi cho kẻ ăn xin. Chính ngài là nơi nương tựa vững chắc cho người nghèo khổ, bệnh tật. Đời sống ngài là kinh nguyện, ăn chay, đọc Sách Thánh và việc từ thiện bác ái. Chính nhờ các việc lành phước đức đó mà Chúa cho ngài được thấy thiên thần giữ mình luôn hiện diện bên cạnh ngài, gìn giữ che chở ngài từng giây từng phút.

Khi lớn lên, cha mẹ gả ngài cho một người sang trọng giàu có, tên là Va-lê-ri-ô. Ngài hết sức cự tuyệt, nhưng sau vì thấy không thể từ khước được, phần vì thấy Va-lê-ri-ô tuy là người ngoại giáo, nhưng ngay thẳng tốt lành, nên ngài cũng bằng lòng chấp nhận. Buổi chiều ngày cưới, ngài dịu dàng nói với chồng:

- Anh yêu quí, xin anh vui lòng cho phép em thố lộ cùng anh một điều bí mật, nhưng xin anh hứa giữ kín dùm em.

Va-lê-ri-ô đáp:

- Điều bí mật nào vậy?... Anh hứa sẽ giữ kín như lòng em mong ước.

Thánh nữ thưa:

- Em là người Công giáo. Và vì em đã khấn dâng mình cho Chúa, nên Chúa đã cho thiên thần giữ gìn em. Nếu thiên thần thấy anh thương em không phải lẽ, ngài sẽ bênh đỡ em, và anh phải chết. Nhưng nếu anh vui lòng giúp em giữ lòng trong sáng trinh khiết thì Chúa sẽ thương ban ơn cho anh.

Va-lê-ri-a kinh ngạc, không hiểu thánh nữ muốn nói gì, chàng bảo:

- Xê-xi-li-a, nếu em muốn anh tin lời em nói, em hãy cho anh thấy thiên thần giữ mình em.

Thánh nữ thưa:

- Nếuanh tin kính Chúa và lãnh Bí tích Rửa tội, anh sẽ thấy thiên thần giữ mình em.

Va-lê-ri-ô chấp nhận tin theo Chúa. Chàng đã đến học đạo và chịu phép rửa nơi Đức Giám mục Ur-ba-nô.

Khi trở lại với Xê-xi-li-a, chàng thấy có thiên thần hộ thủ ở bên cạnh nàng, gìn giữ nàng.

Va-lê-ri-ô còn một người em tên là Ti-bu-ti-ô, chàng thuật lại các việc đã xảy ra cho người em nghe, và Ti-bu-ti-ô cùng xin theo đạo.

Nhưng chẳng bao lâu, cả hai anh em và Xê-xi-li-a bị tố cáo là người Công giáo, nên bị tổng trấn An-ma-xi-ô bắt tống ngục và bắt tế thần, nhưng các ngài một mực từ chối:

- Thần của các ông như là đá sỏi, chỉ có Chúa chúng tôi thờ mới là Thiên Chúa thật, đáng cho mọi người tôn thờ.

Có kẻ thấy thánh nữ trẻ đẹp, và mới hai mươi tuổi, nên khuyên ngài tế thần, kẻo phải chết uổng mạng.

Thánh nữ đáp:

- Cácngài biết: chết vào tuổi tôi không phải là uổng mạng, nhưng là một cuộc trao đổi quí giá, vì Thiên Chúa sẽ ban lại cho tôi gấp trăm.

Thấy không thể lay chuyển nổi lòng tin và chí can trường của các ngài, tổng trấn truyền lệnh chém đầu cả ba. Nhưng khi lý hình chém đầu thánh nữ, nó chỉ gây cho ngài một vết thương nặng, nên chưa chết ngay. Ngài phải chịu đau đớn đến ba ngày sau mới tắt thở…

* Quyết tâm
Hằng ngày kêu xin thiên thần giữ mình che chở cho khỏi phạm tội làm mất lòng Chúa; và noi gương thánh nữ Xê-xi-li-a, suốt đời trung thành theo Chúa.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Xê-xi-li-a, chúng con đến dâng lời khẩn nguyện: vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con được xứng đáng hát mầng danh thánh Chúa.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 23 tháng 11

THÁNH CLÊ-MEN-TÊ

Giáo Hoàng Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Thánh Clê-men-tê sinh tại Rô-ma, trong một gia đình giàu có. Ngài có học thức, say mê tìm kiếm chân lý, đã tìm thấy trong đạo Chúa một kho tàng quí báu làm thỏa mãn mọi đòi hỏi của lý trí và mọi khát vọng của tâm hồn. Chẳng những ngài đã gia nhập đạo, mà còn phụ giúp các tông đồ trong công cuộc truyền bá Phúc âm. Trong thư gởi giáo đoàn Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đã đề cao sự nghiệp truyền giáo của ngài, và quả quyết tên của ngài sẽ được ghi vào sổ Hằng Sống.

Chính vì sự gắn bó khắng khít với các tông đồ và lòng nhiệt thành truyền bá đức tin, thánh nhân được các thánh tổ phụ gọi là người tông đồ, và được chọn làm Giám mục Rô-ma, kế vị thánh Phê-rô điều khiển Hội thánh năm 91. Chính ngài đã chứng kiến cái chết thê thảm của bạo chúa Nê-ron và sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem.

Từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, thánh nhân hoạt động tông đồ đắc lực. Ngài đã đem nhiều người trở lại đạo, xây dựng thánh đường, củng cố hàng giáo sĩ, mở mang các tu viện. Đặc biệt ngài được nổi tiếng nhờ bức thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô. Trong thơ, Ngài nhân danh Giáo hội Rô-ma, khuyên bảo các tín hữu hãy tin tưởng phó thác vào Chúa, và hòa hợp với các vị mục tử. Ngài nói:

“Anh em yêu quý, hồng ân của Thiên Chúa thật tốt đẹp và kỳ diệu! Đời sống trường cửu, công chính rạng ngời, tự do nói lên chân lý, tin tưởng phó thác, thánh thiện đúng mức: tất cả đều đặt vào sự hiểu biết của ta. Vậy còn những ân huệ đã được dành sẵn cho những ai biết mong chờ Chúa là gì? Chỉ một mình Đấng Tạo hóa và là Cha chí thánh của mọi thế hệ biết số lượng và vẻ đẹp của chúng mà thôi. Phần chúng ta, hãy kiên tâm chiến đấu để được ghi tên vào sổ những kẻ biết mong chờ Người, ngỏ hầu cũng được thông phần các ân huệ Người đã hứa…”

“Vậy hỡi anh em, chúng ta hãy hết sức chiến đấu theo lệnh tuyệt đối của Người. Cấp trên không thể vững nếu không có cấp dưới. Cấp dưới không thể làm gì nếu không có cấp trên; Mọi người phải hoà hiệp với nhau; thế mới có lợi. Chính thân thể chúng ta cũng là gương cho ta phải soi; đầu mà không có chân thì đầu cũng bằng không; mà chân không có đầu cũng thế; những chi thể nhỏ nhất trong thân xác ta cũng cần thiết và lợi ích cho cả toàn thân; hơn nữa, mọi chi thể phải cùng nhau liên lụy nhau như một, thì toàn thân mới được lành mạnh”.

“Vậy phải bảo toàn nhiệm thể mà ta kết thành ở trong Đức Giêsu-Kitô, và ai nấy phải tùng phục tha nhân theo ơn Chúa đã chỉ định cho họ. Người khỏe phải bênh vực người yếu; người yếu phải kính nể người mạnh; người giàu phải trợ giúp người nghèo; người nghèo phải ngợi khen Chúa đã ban cho có người giúp đỡ mình trong cơn túng thiếu, người thông thái đừng nói suông, nhưng phải lấy việc lành mà chứng tỏ sự thông thái của mình; người khiêm nhường đừng làm chứng về mình, hãy để người khác nói cho…”

Qua lời nói trong bức thư, chúng ta thấy thánh nhân bày tỏ mối quan tâm của ngài, trong sự hiệp nhất giữa tín hữu với các vị mục tử và giữa các Giáo hội với nhau. Với quyền Giáo Hoàng, ngài kêu gọi mọi thành phần dân Chúa kết hợp làm một trong Chúa Ki-tô, là Vị Thủ Lãnh Tối Cao của Hội thánh.

Chính vì những hoạt động tông đồ mà thánh nhân bị hoàng đế Vết-pa-ri-ô bắt giữ. Ngài bị điệu ra tòa án xét xử vì tội phản nghịch thần linh, tuyên truyền tà đạo, và bị kết án lưu đày khổ sai tại Sét-xô-ne.

Khi đến nơi lưu đày, thánh nhân vui mầng gặp gần 2000 Ki-tô hữu đang phải đày ải và làm việc cực nhọc tại đây. Ngài nói với họ:

- Chúa đã thương ban cho tôi ơn trọng đại, được đến sống với anh chị em là những kẻ được Chúa tuyển chọn, hầu chia phần vinh hiển với anh chị em.

Tương truyền các tín hữu làm việc khổ sai ở đây phải khát nước thảm khốc, vì là nơi núi rừng không có nước. Thánh nhân bảo họ:

- Anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện, xin Chúa cho nước từ tảng đá chảy ra, như xưa Người đã cho dân Do-thái trên đường về đất Hứa.

Thế là ngài cùng các tín hữu cầu nguyện. Và khi ngước nhìn lên, ngài thấy một con chiên trắng như tuyết đang đứng trên đồi trước mặt, chân phải nó đưa lên chỉ một suối nước đang vọt lên…

Từ ngày đó, các kẻ bị lưu đày vì Chúa có nước uống đầy đủ dư dật. Tin đó đồn ra khắp nơi, khiến nhiều người tin quyền phép Chúa và theo đạo. Nghe tin đó, hoàng đế

Tra-da-nô hoảng sợ, truyền lệnh cột neo vào cổ thánh nhân rồi ném xuống biển cho chết, kẻo để ngài sống, ngài làm nhiều việc lạ khác, khiến dân chúng theo đạo hết.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Clê-men-tê Giáo Hoàng tử đạo, tôi dùng mọi phương thế, mọi hoàn cảnh trong đời sống mà giảng rao đạo Chúa.

* Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho thánh nhân can trường. Chúa đã giúp thánh Clê-men-tê là tư tế và tử đạo của Đức Ki-tô, biết lấy máu đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành, và biết nêu gương sáng để củng cố Tin mừng người rao giảng.

Hôm nay chúng con mầng kính người, thì xin cho chúng con được đầy tràn niềm phấn khởi hân hoan.

Chúng con cầu xin…
 

THÁNH CÔ-LUM-BĂN

Viện Phụ

* Gương Thánh nhân

Thánh Cô-lum-băn sinh năm 540 tại Ái-nhĩ-lan, trong thời kỳ các dòng tu ở đây đang thịnh hành phát triển.

Lớn lên, thánh nhân được cha mẹ gởi ở đan viện Băng-gô, để học hành và đào luyện tánh nết cũng như đạo đức. Ngài có trí thông minh đặc biệt, học hành giỏi giắn, lại có lòng mến mộ nhân đức, nên đã xin gia nhập đan viện. Mẹ ngài hết sức ngăn cản, nhưng ngài vẫn cương quyết vâng theo tiếng Chúa gọi.

Ở tu viện, hằng ngày thánh nhân lo trau dồi thêm kiến thức, nhất là học hỏi Thánh Kinh thần học, tập luyện sống khổ hạnh và thực hành đức mến Chúa yêu người, dưới sự hướng dẫn của thánh Com-gan.

Xong thời gian học tập, thánh nhân được bề trên giao cho dạy học trong dòng. Và năm 590, ngài được sai đi truyền giáo và thành lập tu viện tại xứ Gôn (nước Pháp), với một nhóm tu sĩ của dòng.

Suốt hơn 10 năm ở đây, thánh nhân sống khắc khổ, rày đây mai đó, rao giảng Tin mừng cứu rỗi cho mọi người, đồng thời giúp đỡ những người nghèo khổ bệnh tật. Dân chúng thấy ngài tận tụy, hy sinh vì họ thì đem lòng thương mến và xin gia nhập đạo đông đảo. Trong số nầy có nhiều người muốn theo làm môn đệ Ngài.

Ngoài ra việc giảng đạo, thánh nhân còn thành lập nhiều đan viện, số người gia nhập ngày càng đông. Họ sống hy sinh khắc khổ, chuyên cần cầu nguyện và làm việc để sinh sống, và nếu có dư ra thì bố thí cho kẻ nghèo. Đan viện nổi tiếng nhất của ngài là đan viện ở Lút-xơi. Đây là nơi phát xuất ra nhiều nhà truyền giáo lỗi lạc, nhiều vị tông đồ đắc lực.

Thánh nhân thường xuyên huấn luyện các tu sĩ về đàng nhân đức: đây là mối bận tâm lớn nhất của ngài. Trong một bài huấn đức, ngài nói:

“Trong sách luật, Mô-sê đã viết: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Người. Xin hãy cùng tôi tìm hiểu ý nghĩa cao cả của câu sách ấy. Thiên Chúa toàn năng, vô hình, khôn thấu, khôn tả, khôn ví. Khi nhào nặn con người từ bùn đất, đã làm cho ta trở nên cao cả bằng cách ban cho họ được vinh dự, được giống hình ảnh Người. Con người là gì sánh với Thiên Chúa? Bùn đất là gì sánh với thần khí. Bởi lẽ, Thiên Chúa là thần khí, thế nên việc Thiên Chúa ban tặng cho con người hình ảnh vĩnh cửu và sự sống giống như ngài, là một “việc tôn vinh” kỳ diệu. Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa là một vinh dự lớn lao cho con người, nếu hình ảnh đó được bảo toàn”.

“Quả vậy, bao lâu con người biết sử dụng tốt các khả năng đã được gieo sẵn trong tâm hồn mình, thì họ giống như Thiên Chúa. Những khả năng nào Thiên Chúa đã gieo trong con người nguyên thủy của ta, thì Người dạy ta phải sống trả lại Người tất cả. Trước nhất, Người dạy ta: hãy yêu mến Chúa hết lòng vì chính Người đã yêu thương ta trước, ngay từ đầu, trước cả khi ta hiện hữu, yêu mến Thiên Chúa tức là canh tân hình ảnh Người ở nơi ta. Mà yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các lệnh truyền của Người, vì Người đã phán: “Nếu các con yêu mến Ta, các con hãy tuân giữ các lệnh truyền của Ta. Điều Ngài truyền chính là tình bác ái huynh đệ: Nầy là lệnh truyền của Ta, hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.

Giữa lúc đó, vua nước Buộc-gôn sống phóng đãng ngoại tình. Thánh nhân thấy vậy thì khuyến cáo ông ta. Nhưng thay vì nghe lời khuyên của thánh nhân, ông ta nổi giận, trục xuất ngài ra khỏi tu viện, và cấm không cho ai chứa ngài. Buộc lòng ngài phải sang trú ngụ nước Ý và qua đời tại đây ngày 23 tháng 11 năm 615.

* Quyết tâm
Dù gặp khó khăn thử thách vẫn một lòng trung kiên theo Chúa, kêu gọi nhiều người giúp Chúa cứu rỗi các linh hồn, theo gương thánh Cô-lom-băn viện phụ.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nhân Cô-lum-băn ơn đặc biệt là vừa hăng say rao giảng Tin mừng, vừa yêu chuộng đời sống đan tu chiêm niệm.

Vì lời chuyển cầu và gương sáng của thánh nhân, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trên hết mọi sự, và đêm ngày thao thức mở mang nước Chúa.

Chúng con cầu xin…
 

Ngày 24 tháng 11

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Bổn Mạng Hội Thánh Việt Nam

* Gương Thánh nhân

Hôm nay Giáo hội Công giáo và đặc biệt Hội thánh Việt Nam mừng kính toàn thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM . Lịch Công giáo (“những ngày lễ Công giáo”) đề là lễ “Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc và các bạn Tử đạo”.

Theo sử liệu, đạo Chúa được truyền giảng tại Việt Nam vào thế kỷ 16. Và suốt gần 300 năm sau đó, đã có khoảng 130.000 Ki-tô hữu bị giết vì đạo, do trung thành giữ vững đức tin và để nên hạt giống trổ sinh thêm người có đạo; trong số đó có 117 vị đã được Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 suy tôn lên Hiển thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988, gồm có 08 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 01 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã phải chịu rất nhiều hình khổ: 79 vị bị trảm quyết (chặt đầu), 16 vị xử giảo (siết cổ chết), 08 vị chết rũ tù, 06 vị bị thiêu sống, 04 vị bị lăng trì (chặt tay chân), 01 vị xử bá đao (lóc 100 miếng thịt ), 01 vị tử thương.

Hội Đồng Giám mục chọn các thánh tử đạo Việt Nam làm bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, để nhờ các ngài cầu bầu cùng Chúa cho đạo thánh ngày càng phát triển trên quê hương xứ sở, và cho mọi tín hữu biết noi gương các ngài, luôn can đảm trung thành với Chúa.

Hôm nay cũng là ngày:
 

* THÁNH PHÊ-RÔ CAO, PHÊ-RÔ KHOA

VÀ VINH SƠN ĐIỂM

Giám Mục và Linh Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Sau khi bị bắt, Đức Cha Cao, hai cha Phê-rô Khoa và Vinh-sơn Điểm bị nhốt chung trong ngục ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Suốt thời gian ở trong ngục, mỗi ngày ba vị cùng nhau lần chuỗi Môi Khôi, kêu xin Đức Mẹ ban ơn giúp sức, để đủ sức mạnh và can đảm chịu mọi cực hình vì Chúa. Các ngài hoàn toàn phó thác đời mình cho Mẹ là Nữ Vương hàng Linh mục. Sau mỗi khi lần chuỗi các ngài đồng thanh cầu khẩn: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, xưa Mẹ đã dâng Con yêu dấu của Mẹ trong đền thờ và trên Thánh giá, nay xin Mẹ cũng dâng hiến chúng con trong cuộc tử đạo…”

Nhờ đó, các ngài đã chiến thắng mọi khổ hình, vượt qua mọi thử thách, trung thành với Chúa đến hơi thở cuối cùng.

* * *
Phê-rô Cao sinh ngày 20 tháng 02 năm 1808, tại miền Co-rê nước Pháp.

Cha mẹ muốn cho cậu làm Linh mục, nên ép cậu vào chủng viện. Cậu miễn cưỡng vâng lời, song chẳng cảm thấy hứng thú mộ mến gì. Do đó, cậu sống trong chủng viện như lụt bình trôi; chẳng những thế, cậu còn lỗi phạm kỷ luật như cơm bữa. Cha giám đốc phải xử phạt cậu thường xuyên, nhưng rồi cậu cũng chứng nào tật nấy, chẳng sửa đổi được chút nào. Song Chúa quan phòng đã sắp đặt cho cậu. Một hôm cậu bị cơn sốt nặng. Trên giường bệnh, cậu được dịp đọc cuốn Niên Giám của Trường Truyền Giáo, ghi lại cuộc đời của các vị giảng đạo ở Viễn Đông. Cậu cảm thấy phấn khởi, muốn nối gót các nhà truyền giáo, đem Chúa đến cho những người ở miền xa. Khi mạnh lại, cậu xin chuyển qua chủng viện Hội Thừa sai Pa-ri, ngày ngày chuyên cần học hỏi tu luyện, với ước nguyện làm tông đồ mở rộng Nước Chúa. Ngày 21 tháng 11 năm 1830, thầy Phê-rô thụ phong Linh mục, và lên đường truyền giáo.

Dọc đường tàu bị bão tố, cha phải dừng lại ở Ma-cao. Đến ngày 15 tháng 05 năm 1832, cha mới tới Việt Nam . Sau thời gian học tiếng, cha lấy tên là Cao, và được Đức Cha Du, Giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài sai đi rao giảng Tin mừng tại Nghệ An, Hà Tỉnh và Bố Chính.

Từ ngày đó, cha lăn xả vào cánh đồng truyền giáo, đem hết tài năng sức lực phục vụ các linh hồn, rao truyền đạo Chúa cho lương dân. Nhưng mới hoạt động tông đồ được mấy tháng, thì ngày 06 tháng giêng năm 1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc. Cha phải ẩn trốn rày đây mai đó để lo việc mục vụ, ban các Bí tích cho các giáo hữu. Cuộc bắt đạo ngày càng gay gắt, cha phải xuống hầm ẩn trốn. Quan quân lục soát tìm kiếm không gặp cha, họ liền bắt một thiếu nữ có đạo, đánh đập tra khảo dữ dội, buộc phải chỉ chỗ cha trú ẩn. Cô can đảm không khai, nhưng người cha thấy con mình bị đòn đau đớn quá thì cầm lòng không nổi, đã chỉ dẫn cho quân lính bắt cha, giải về Đồng Hới, nhốt chung với cha Khoa và cha Điểm. Chính trong thời gian bị giam ở đây, cha nhận được văn thư Tòa Thánh, đặt cha làm Giám mục, coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay cho Đức Cha Du.

Phê-rô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790, tại xứ Thuận Nghĩa tỉnh Nghệ An. Lớn lên cậu theo học với Cha Hòa và cha Phương. Hai cha thấy cậu giỏi giắn đạo đức và có ý muốn dâng mình cho Chúa, thì gởi vào chủng viện Vĩnh Trị ở Nam Định. Năm 1820, thầy Khoa được thụ phong Linh mục.

Đức Cha bổ nhiệm cha làm phụ tá cha Vinh-sơn Điểm, coi sóc giáo hữu các xứ Lu Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố Chính. Hằng ngày cha nhiệt thành phụ giúp cha sở, giảng dạy giáo lý, ngồi tòa giải tội, huấn luyện tân tòng. Trong thời gian 09 năm phụ tá cha Điểm, cha học được nhiều kinh nghiệm mục vụ, nên Đức Cha cử đi làm chánh sở giáo xứ Cồn Dừa. Với tài đức đã tập luyện và kinh nghiệm đã thu thập được, cha hoạt động tông đồ đắc lực, giúp giáo hữu nhiệt thành sống đạo, đem nhiều người ngoại giáo trở về với Chúa

Đang lúc cha hăng say hoạt động tông đồ, thì ngày 06 tháng giêng năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc chỉ cấm đạo trên toàn quốc: giáo sĩ cũng như tín hữu bị lùng bắt khắp nơi, thánh đường bị triệt hạ, cơ sở đạo bị phá hủy. Cha phải ẩn nấp và thay đổi chỗ ở luôn, để ban các Bí tích cho giáo dân, khuyến khích họ trung thành giữ vững đức tin. Đêm 02 tháng 07 năm 1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn, thì quan quân đến bao vây bắt giải về Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, giam chung với Đức Cha Cao và Cha Điểm.
Vinh-sơn Nguyễn Thế Điểm sinh năm 1761, tại An Do tỉnh Quảng Trị, thuộc địa phận Tây Đàng Ngoài.

Lớn lên, cậu nghe theo tiếng Chúa gọi, xin vào chủng viện Kẻ Vĩnh ở Nam Định. Sau thời gian tu luyện hoc hành, thầy Vinh-sơn Điểm được thụ phong Linh mục, Đức Cha Du bổ nhiệm cha lãnh chánh xứ Cồn Nam, kiêm luôn mấy họ đạo lân cận thuộc hạt Bố Chính.

Mới chịu chức Linh mục mà phải đảm đương một vùng rộng lớn, với nhiều giáo dân, cha hết sức lo âu, ngày đêm kêu xin Chúa ban ơn trợ lực để chu toàn trách vụ. Mỗi tuần cha ăn chay cầu nguyện cho con chiên bổn đạo biết lo làm tròn bổn phận đối với Chúa và Hội thánh. Cha quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo các thầy giảng, để có người cộng tác trong việc tông đồ mục vụ.

Năm 1838, cuộc bách hại của vua Minh Mạng trở nên ác liệt. Quan quân ngày đêm truy lùng bắt bớ, giết hại. Lúc đó cha đã cao niên, tuổi già sức yếu, phải lặn lội trốn tránh để lo cho đàn chiên. Một hôm, đang lúc cha đi tìm nơi trú ẩn thì bị bắt, giải về Đồng Hới. Trong tù, cha gặp Đức Cha Cao và Cha Khoa.

Cùng sống chung trong ngục, mỗi ngày ba vị hiệp nhau lần chuỗi Môi Khôi, kêu cầu Đức Mẹ cầu thay nguyện giúp cho được can đảm chịu chết vì Chúa.

Trong thời gian bị giam ở đây, các ngài chịu tra tấn nhiều lần, buộc đạp lên Thánh giá, chối đạo. Nhưng các ngài luôn luôn từ khước, mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ki-tô.

Thấy cực hình không lay chuyển nổi lòng tin sắt đá của các vị, quan phải chịu thua, làm án gởi về Kinh. Ngày 24 tháng 11 năm 1838, bản án vua Minh Mạng châu phê đã về tới Đồng Hới. Theo đó, Đức Cha Cao bị kết án xử trảm (chém đâu), còn cha Khoa và cha Điểm thì lãnh án xử giảo (thắt cổ đến chết).

Tại pháp trường Đồng Hới, cha Khoa và cha Điểm chịu xử giảo trước. Đến lượt Đức Cha Cao, lý hình muốn được bình tĩnh để làm phận vụ, nhưng vì lỡ uống rượu quá chén, anh chém trật vào tai, và vai Đức Cha, mãi đến nhát thứ bảy, đầu vị anh hùng mới lìa khỏi cổ.

Ngày 27 tháng 05 năm 1900, Đức Thánh Cha Lê-ô 13 đã tôn phong các ngài lên Chân phước, và ngày 19 tháng 06 năm 1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 suy tôn lên Hiển Thánh.

* Quyết tâm
Noi gương thánh Phê-rô Cao, Phê-rô Khoa và Vinh-sơn Điểm tử đạo, nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, và hằng ngày siêng năng lần chuỗi Môi Khôi, cậy nhờ Đức Mẹ phù giúp hy sinh chịu khó làm chứng cho Chúa.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 26 tháng 11

THÁNH TÔ-MA DỤ VÀ ĐA-MINH XUYÊN

Linh Mục Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Vì lòng nhiệt thành lo mở rộng Nước Chúa, hai cha Tô-ma Dụ và Đa-minh Xuyên sau khi chịu chức Linh mục còn gia nhập dòng Đa-minh, để nhờ đời sống chiêm niệm và cầu nguyện theo luật dòng, các ngài có thể làm tông đồ đắc lực hơn. Cha Du khấn dòng ngày 21 tháng 12 năm 1814, cha Xuyên ngày 20 tháng tư năm 1820, và cả hai vị đều sống nên những tu sĩ gương mẫu, những Linh mục thánh thiện. Nhờ đó, các ngài đã cứu vớt được nhiều linh hồn, và được Chúa ban cho phúc tử đạo vinh hiển.

* * *
Tô-ma Đinh Viết Dụ sinh năm 1783, tại Phú Nhai tỉnh Nam Định. Được Chúa kêu gọi từ nhỏ, cậu đã xin gia nhập chủng viện, hiến dâng đời mình cho Chúa.

Trong thời gian học hành tu luyện ở chủng viện, cậu đã có lòng tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt. Hằng ngày cậu siêng năng lần chuỗi Môi Khôi, phó thác trọn đời trong tay Mẹ. Và năm 1814, thầy Tô-ma Dụ đã được lãnh Bí tích Truyền chức Thánh, trở nên Linh mục của Chúa. Sau đó ít lâu, cha xin gia nhập dòng Đa-minh, và khấn ngày 21 tháng 12. Cha luôn tuân giữ luật dòng nhiệm nhặt, ngày đêm sống trong chiêm niệm cầu nguyện. Nhờ đó cha được tiến triển trên đường nhân đức và phục vụ đắc lực các linh hồn.

Cha được Đức Cha bổ nhiệm giúp nhiều giáo xứ. Tới đâu cha cũng nhiệt thành giảng dạy, ban phát các Bí tích cho giáo dân, nhất là cổ động truyền bá chuỗi Môi Khôi, kêu gọi mọi người tôn sùng kính mến Đức Mẹ, để được Người phù hộ cứu giúp trong cơn thử thách bách hại.

Năm 1838, cha được cử đến họ đạo Liểu Đề thay thế cha Phê-rô Tuần vừa bị bắt ! Cha hoạt động tông đồ ở đây chưa đầy một năm, thì ngày 20 tháng 05 năm 1839 quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh được tin mật báo có cha Vọng là Linh mục thừa sai ẩn nấp ở Liểu Đề, quan cho quân lính đến vây bắt. Không bắt được cha Vọng, họ chia ra nhiều toán lục soát khắp nơi. Lúc đó cha Dụ đang ẩn nấp ở nhà bà An-rê Thu. Vừa dâng Thánh lễ xong, nghe tin có quân lính bao vây, cha vội vàng cải trang thành người làm vườn, chạy sang nhà kế bên ngồi làm cỏ. Quân lính đi ngang không nhận ra cha, nhưng sau đó có người tố giác nên quân lính trở lại bắt cha, giải lên tỉnh Nam Định.

Ba tháng sau, cha Đa-minh Xuyên là Linh mục cùng dòng với cha cũng bị bắt, giải về giam chung với cha. Hai anh em gặp nhau, tay bắt mặt mừng, hàn huyên tâm sự, an ủi nâng đỡ nhau suốt thời gian ở trong ngục.

Đa-minh Nguyễn Văn Xuyên sinh năm 1786, tại Hương Hiệp tỉnh Thái Bình. Thấy con thông minh đạo hạnh, cha mẹ gởi gắm nhờ Đức Cha Y, Giám mục giáo phận Đông Đàng Ngoài dạy dỗ huấn luyện, với ý nguyện sau nầy cậu sẽ dâng mình giúp việc Chúa. Cậu Đa-minh lớn lên, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan đạo đức, và hết lòng ước muốn là Linh mục rao giảng đạo Chúa. Thấy vậy, Đức Cha cho cậu vào Đại Chủng viện và ban Bí tích Truyền chức Thánh năm 1819. Sau đó cha xin gia nhập Dòng Đa-minh và tuyên khấn ngày 20 tháng tư năm 1820.

Từ đó, cha hăng hái đi hoạt động tông đồ, loan báo Tin mừng cho lương dân, chăm lo phần rỗi các tín hữu. Cha đến giúp xứ Phạm Phao, tỉnh Nam Định, rồi xứ Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình. Khi Đức Cha bổ nhiệm cha đến xứ Đông Xuyên thì gặp ngay lúc ở đây đang bị hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ. Hằng ngày cha đi thăm từng gia đình, ủy lạo giúp đỡ gạo thóc tiền của cho họ. Nhiều lần cha phải vét sạch túi, lấy cả phần gạo của cha để giúp đỡ cho họ. Thấy cha hy sinh hết mình như thế, mọi người kể cả lương lẫn giáo đều cảm phục quý mến cha. Nhờ đó mà hoạt động tông đồ mục vụ của cha thành công tốt đẹp. Nhiều người lương xin vào đạo, các giáo hữu ngày càng thêm lòng đạo đức sốt sắng.

Năm 1837, giữa lúc vua Minh Mạng bắt đạo gắt gao, Đức Cha gọi cha về làm quản lý địa phận, vừa giúp xứ Hạ Linh. Mặc dầu hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm, cha vẫn tận tâm phục vụ giáo phận, hết lòng giúp đỡ các Linh mục trong công tác truyền giáo. Ngày 18 tháng 08 năm 1839, cha đang làm lễ ở họ Phú Đường, họ nhỏ của xứ Hạ Linh, quân lính đến bao vây. Cha vội vàng rước Mình Thánh Chúa, cởi áo lễ chạy trốn. Nhưng quân lính đuổi theo kịp, bắt cha giải về cho tổng đốc Trịnh Quang Khanh.

Biết cha làm quản lý giáo phận, tổng đốc Khanh cho hành hạ tra tấn dữ dội, để vừa buộc cha chối đạo vừa khai thác tiền của. Nhưng cha thành thật nói:

- Tôi chẳng có tiền bạc của cải gì. Còn việc đạp lên Thánh giá, tôi không bao giờ dám làm, vì như thế là xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Cứu chuộc tôi.

Tức giận, viên tổng đốc ra lệnh lấy sắt nung đỏ, dí vào da thịt cha đến cháy khét, rồi lấy kềm kẹp, rứt ra từng miếng thịt hết sức đau đớn. Nhưng cha ráng sức cam lòng chịu khổ vì Chúa, không than van, mà còn cho đó là ơn Chúa thương ban, để được đồng lao cộng khổ với Người trong cuộc tử nạn. Cha Tô-ma Dụ bị giam chung với cha cũng nhiều lần chịu hành hạ tra tấn, bắt ép đạp lên Thánh giá chối đạo. Nhưng ngài cũng vẫn cương quyết trung thành theo Chúa, sẵn sàng chấp nhận khổ hình đòn vọt để làm sáng danh Chúa. Một bà bổn đạo của cha giả làm người ăn xin vào ngục thăm cha, thấy cha tiều tụy khổ sở quá thì khóc nức nở. Cha an ủi bà và nói:

- Sức lực tôi suy giảm, thân thể tôi dẫu hao mòn khổ cực, nhưng tôi còn muốn được chịu hình khổ hơn nữa, để danh Chúa được cả sáng.

Đứng trước hai vị anh hùng can đảm hy sinh tột độ như thế, tổng đốc Khanh không còn biết làm cách nào khác hơn là kết án trảm quyết, trình lên vua Minh Mạng. Nhà vua phê y án.

Ngày 26 tháng 11 năm 1839, hai vị chiến sĩ của Chúa được dẫn ra pháp trường Bảy Mẫu. Và sau một lúc quỳ cầu nguyện sốt sắng, các ngài đã lãnh lấy những nhát gươm của lý hình, để được nhận triều thiên tử đạo vinh hiển.

Ngày 27 tháng 05 năm 1900, Đức Thánh Cha Lê-ô 13 tôn phong Chân phước cho các ngài, và Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 suy tôn lên Hiển Thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988.

* Quyết tâm
Siêng năng lần chuỗi Môi Khôi để tôn kính Đức Mẹ, và nhờ Mẹ giúp rao giảng đạo Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng việc bác ái, nhất là bằng hy sinh chịu khó, theo gương thánh Tô-ma Dụ và Đa-minh Xuyên Linh mục dòng Đa-minh tử đạo.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 28 tháng 11

* THÁNH AN-RÊ TRẦN VĂN THÔNG

Quân Nhân Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Ngày 27 tháng 05 năm 1900, khi tôn phong vị anh hùng tử đạo An-rê Thông lên Chân phước, Đức Thánh Cha Lê-ô 13 đã hết lời khen ngợi bà mẹ của thánh nhân. Bà đã noi gương Đức Mẹ, dâng hiến con trai duy nhất của mình cho Chúa. Trong giờ con bị hành quyết, bà đứng bên con, chẳng những không sầu buồn than khóc, mà còn an ủi khích lệ con bền lòng chịu chết vì Chúa, như Đức Mẹ xưa dưới chân Thánh giá, lúc Chúa Giê-su chịu thương khó tử nạn trên đồi Can-vê. Thật bà là một người mẹ can đảm hy sinh đáng cho mọi thời ca tụng, nên gương sáng cho tất cả các bà mẹ Công giáo. Một người mẹ như thế chắc chắn sẽ được Chúa thương. Và thực sự bà đã được Chúa cho con bà được phúc tử đạo vinh hiển.

An-rê Trần Văn Thông sinh năm 1814, tại Phú Xuân, Huế. Cậu là con trai độc nhất của gia đình, nên được cha mẹ đặc biệt chăm lo cho học hành, hầu sau nầy nối dõi tông đường. Nhưng mới lên 15 tuổi, cha cậu mất, để lại cảnh mẹ góa con côi, nghèo nàn khổ sở. Cậu phải bỏ học, ở nhà làm việc giúp đỡ mẹ.

Vì ở Phú Xuân khó khăn, không có việc làm, mẹ con phải đùm bọc theo bà con lối xóm đến họ đạo Thợ Đúc, dệt tơ lụa cho hoàng gia, kiếm sống qua ngày. Sau những giờ lao động mệt nhọc, cậu thường ra ngồi trên bờ sông Hương, vừa nghỉ ngơi, vừa câu cá cho mẹ con ăn đắp đổi mỗi ngày. Hôm nào không câu được cá, cậu rất buồn vì hôm đó mẹ cậu phải ăn cực. Phải chăng đó là tấm lòng của người con hiếu thảo?

Nhưng cuộc sống ngày càng vất vả. Đồng lương của người thợ dệt quá ít ỏi, không đủ nuôi sống hai mẹ con. Cậu phải nén lòng từ giả mẹ già, lên đường gia nhập quân đội, để được lương khá hơn. Lúc đó cậu đã 20 tuổi.

Với số lương hàng tháng, cậu có thể lo cho mẹ già khi mạnh khỏe cũng như lúc đau ốm. Điều đó làm cho cậu hết sức vui mầng và tạ ơn Chúa, vì Người đã thương giúp cậu làm tròn bổn phận làm con. Nhưng mới được 08 tháng thì cuối năm 1894, vua Minh Mạng ra lệnh cho các binh lính Công giáo phải ra trình diện, ai bất tuân sẽ bị nghiêm phạt. Ở khu Thợ Đúc lúc đó có tất cả 13 binh sĩ có đạo, trong số đó có An-rê Trần Văn Thông; khi ra trình diện, quan ra lệnh:

- Hãy đạp lên thập giá bỏ đạo. Ai bất tuân lệnh vua sẽ bị chém đầu.

Tất cả đều đồng lòng không bước qua Thánh giá, không bỏ đạo. Quan nổi giận, cho đánh đòn dữ dội. Sau trận đòn thứ nhất, vài người đã ngã lòng thối chí chối đạo. Thấy thế, quan bảo quân lính:

- Đánh nữa. Cứ tiếp tục đánh cho đến lúc chúng đạp lên thập tự hết.

Và cứ sau mỗi trận đòn thì có thêm kẻ chối Chúa bỏ đạo. Thật đau lòng. Họ sợ đòn hơn sợ tội, sợ người đời hơn sợ Chúa !... Sau cùng chỉ còn một mình An-rê Thông trung kiên theo Chúa, thà chết chẳng thà chối bỏ đạo. Quan ra lệnh trói tay chân anh, khiêng qua thập giá. Nhưng anh tuyên bố:

- Đây là việc làm ngoài ý muốn của tôi… Không. Tôi không dám xúc phạm đến Chúa là Chúa tể trời đất. Chúa biết rõ lòng tôi tôn kính Chúa.

Quá tức giận, quan truyền đánh anh nhừ tử rồi cho tống vào ngục.

Suốt một năm trời bị giam trong ngục, người chiến sĩ anh dũng của Chúa phải đói khát cơ cực, lại còn phải chịu tra tấn đánh đập nhiều lần; nhưng dường như càng bị hành hạ khổ sở, anh càng tỏ ra mạnh mẽ kiên vững trong đức tin, nhờ hằng ngày cầu nguyện kêu xin Chúa và Đức Mẹ ban ơn giúp sức cho anh. Lính canh thấy anh đau khổ cơ cực thì động lòng thương, tạo mọi điều kiện dễ dàng cho anh. Nhờ đó anh được gặp Linh mục xưng tội rước lễ và thăm mẹ.

Khi thấy không còn hy vọng làm cho anh bỏ đạo, quan buộc lòng kết án trảm quyết. Sáng ngày 28 tháng 11 năm 1834, quân lính dẫn vị anh hùng đức tin ra pháp trường. Bà mẹ nghe tin đem con đi giết thì vội vàng ra đón. Mẹ con gặp nhau hết sức vui mầng. Bà không biết nói gì hơn là khuyên con can đảm hy sinh vì Chúa đến cùng.

Đến nơi, sau hồi chiêng báo hiệu, tên lý hình vung gươm, đầu vị chiến sĩ của Chúa rơi xuống, linh hồn bay thẳng về trời, trước sự chứng kiến của người mẹ già thân thương.
Ngày 27 tháng 05 năm 1900, Đức Thánh Cha Lê-ô 13 phong Chân phước cho ngài. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 suy tôn ngài lên Hiển Thánh ngày 19 tháng 06 năm 1988.

* Quyết tâm
Noi gương thánh An-rê Thông quân nhân tử đạo, hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, và bền lòng chịu khổ chịu cực vì Chúa cho đến chết.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
 

Ngày 30 tháng 11

THÁNH AN-RÊ

Tông Đồ

* Gương Thánh nhân

Thánh An-rê, em thánh Phê-rô, là người đầu tiên trong Mười Hai Tông Đồ đã biết Chúa Giê-su, ngay sau khi Người chịu phép rửa ở sông Gio-đăng, lúc ngài còn là môn đệ của Gioan Tẩy giả.

Phúc âm kể như sau:

“Hôm đó, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói:

- Đây là Chiên Thiên Chúa.

Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su, Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi:

- Các anh tìm gì thế?

Họ đáp:

- Thưa Ráp-bi (nghĩa là Thưa Thầy) Thầy ở đâu?

Người bảo họ:

- Đến mà xem.

Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều” (Ga. 1,35-39).

Và sau khi ở lại với Chúa Giê-su, ngài đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên:

- Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a (nghĩa là Đấng Ki-tô).

Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giê-su, Đức Giê-su nhìn ông Si-mon, và nói:

- Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha (tức là Phê-rô)” (Ga. 1,40-43).

Nhưng thánh nhân chỉ được Chúa chính thức gọi theo người lúc đang thả lưới với anh là Phê-rô, ở biển hồ Ti-bê-ri-a. Người gọi các ông trong hoàn cảnh sau đây:

“Người đang đi dọc biển hồ Ga-li-lê thì thấy hai anh em kia, là ông Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và người em là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông:

- Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.

Lập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt. 4, 18-20).

Trong phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều, thánh nhân là người lên tiếng thưa với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu !” (Ga 6,9). Và ở Giê-ru-sa-lem, khi những người Hy-lạp xin gặp Chúa Giê-su, ông là người đã giới thiệu họ với Chúa (Ga. 12,22).

Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin mừng ở Giê-ru-sa-lem, Giu-đê và Ga-li-lê. Sau đó ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy-lạp và chịu tử đạo tại đây. Người ta bắt ngài đem nộp cho quan tổng trấn ở Pa-tra. Viên nầy bảo ngài tế thần thì ngài nói:

- Thần của các ông là ma quỷ xấu xa không nên thờ. Chỉ phải thờ Thiên Chúa là Vị Thẩm phán có quyền xét xử mọi người.

Tổng trấn hỏi lại:

- Vị Thẩm phán anh nói là Giê-su bị đóng đinh treo trên khổ giá đó phải không? Nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết treo trên khổ giá như thế.
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mầng nói:

- Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi, vì được chết giống Thầy chí Thánh của tôi.

Viên tổng trấn nổi giận, truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết.

Khi nhìn thấy thập giá mà ngài sẽ phải treo lên, ngài chào mầng và nói:

- Ôi Thánh giá là nơi Chúa chịu chết chuộc tội loài người, tôi đã quý mến ngươi từ lâu. Ngươi hãy giúp tôi đến gặp Chúa Giê-su là Thầy Chí Thánh của tôi.”

Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.

Thánh Gio-an Kim Khẩu đã khen ngợi thánh An-rê tông đồ, ngài nói: “Sau khi ở lại với Đức Giê-su và học cùng Người được nhiều rồi, An-rê đã không giấu kho tàng quý báu nơi mình, nhưng vội vàng chạy đến anh mình và chia sẻ với anh…

Những điều ông đã học trong thời gian vắn kia, ta có thấy ông đã nói lên thế nào không? Ông vừa tuyên xưng uy thế của Thầy, một uy thế hấp dẫn các môn đệ, vừa nói lên sự siêng năng chăm chỉ của môn đệ đã chuyên chú ngay từ đầu. Đó là tiếng nói của một tâm hồn hết sức ao ước Đấng Mê-si-a đến, và của linh hồn mong đợi Người tự trời đến, rồi nhảy mừng khi thấy Người hiện ra, và vội vàng đi báo tin đặc biệt đó cho kẻ khác. Đặc điểm của tình anh em, của nghĩa bạn bè và của tấm lòng chân thật là thông đạt cho nhau những điều thiêng liêng”.

* Quyết tâm
Noi gương thánh An-rê tông đồ, tôi hết lòng quý mến thánh giá, sẵn sàng vác thánh giá theo Chúa hằng ngày, và nhiệt thành giới thiệu Chúa chịu chết trên thánh giá là Đấng cứu chuộc mọi người.

* Lời nguyện
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mầng kính thánh An-rê người ngư phủ đã tin Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a và mau mắn giới thiệu cho anh mình.

Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, mà củng cố niềm tin của chúng con, để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ.

Chúng con cầu xin…
 

* THÁNH GIU-SE DU

Linh Mục Thừa Sai Tử Đạo

* Gương Thánh nhân

Các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu nhiều hình khổ khác nhau để làm chứng cho Chúa, để hiệp thông với sự thương khó Chúa Giê-su cứu rỗi linh hồn mọi người. Theo sử liệu, trong số 117 Hiển thánh Tử đạo được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 suy tôn ngày 19 tháng 06 năm 1988, có 04 vị bị lăng trì (chặt tay chân trước khi chém đầu), 06 vị bị thiêu sinh (đốt sống), 75 vị xử trảm (chém đầu), 22 vị xử giảo (tròng dây chéo vào cổ rồi kéo cho đến chết), 09 vịrũ tù (chết trong tù) và 01 vị xử bá đao (cắt 100 miếng thịt trong thân thể), đó là Thánh Giu-se Du.

Giu-se Du sinh ngày 17 tháng 08 năm 1803, tại nước Pháp. Ngay từ nhỏ, cậu đã muốn đi tu làm Linh mục. Nhưng vì gia đình nghèo, cha mẹ không thể đáp ứng nguyện vọng của cậu được, nên tìm cách trì hoãn, cố ý cho cậu đổi ý định. Thấy cậu mãi kiên quyết một lòng theo Chúa, năm 1821 cha mẹ buộc lòng phải thắt lưng buộc bụng lo cho cậu vào chủng viện. Sau khi chịu chức phó tế, thầy Giu-se xin gia nhập Hội Thừa sai Pa-ri, cốt ý để sau nầy làm Linh mục sẽ đi truyền giáo tại các vùng Viễn Đông. Đúng như lòng sở nguyện, ngày 04 tháng tư năm 1829, thầy Giu-se được lãnh Bí tích Truyền chức Thánh, và sau đó đáp tàu sang Việt Nam . Nhưng vì lúc đó vua Minh Mạng đang bắt đạo gắt gao, cha phải dừng lại ở Ma-cao, mãi đến đầu tháng 03 năm 1830, mới vào đến Lái Thiêu. Cha ở đây học tiếng, chọn tên Việt Nam là Du, rồi đi giúp giáo hữu ở Nam Vang (khi đó thuộc địa phận Đàng Trong). Ít lâu sau, cha được gọi trở lại Lái Thiêu, làm giáo sư chủng viện, đồng thời đảm trách 25 họ đạo trong tỉnh Bình Thuận. Thật là một trách nhiệm nặng nề, lớn lao. Suốt ngày cha phải tận dụng thời giờ, vừa lo dạy dỗ chủng sinh, vừa ban các Bí tích cho giáo hữu, vừa giảng đạo cho lương dân. Trong một bức thư gởi về gia đình, cha viết:

“Con đang đảm trách 25 họ đạo rất cách xa nhau. Muốn chu toàn bổn phận, con phải hết sức cố gắng tận dụng thời giờ. Từ năm giờ sáng đến 9 giờ tối con phải làm việc cật lực, để vừa giúp lo các giáo hữu vừa giảng đạo cho lương dân…”

Cha mới đi hết 25 họ đạo được hai lần thì vua Minh Mạng ra lệnh lùng bắt hết các giáo sĩ ngoại quốc. Đức cha Từ và các cha thừa sai phải trốn qua Thái Lan, chỉ một mình cha hy sinh ở lại, lén lút đi giúp các họ đạo ở vùng Lục Tỉnh, như Cái Nhum, Cái Mơn, Giồng Rùm, Mặc Bắc…

Năm 1834, Lê Văn Khôi nổi lên chống lại triều đình, chiếm lấy thành Gia-định (Sàigòn). Y muốn nhờ cha kêu gọi giáo dân theo phe mình, nên đến Mặc Bắc bắt ép cha về Gia-định, yêu cầu cha ký tên vào các bản văn viết sẵn, để kêu mời người Công giáo tham gia chống lại triều đình. Cha nhất quyết từ chối và nói:

“Tôi đến Việt Nam chỉ để giảng đạo. Việc binh lính chiến tranh tôi không bao giờ biết tới.

Ngày 08 tháng 09 năm 1835, quân triều đình chiếm lại được thành Gia-định. Cha vừa dâng lễ xong thì quân lính áp vào bắt, đánh đập tàn nhẫn rồi nhốt vào củi hết sức chật hẹp, giải về kinh đô.

Trong thời gian ở đây, cha phải chịu tra khảo vô cùng đau đớn, bắt ép phải nhận tội tham gia phản loạn với Lê Văn Khôi. Quan cho nung đỏ kềm sắt, kẹp vào hai đùi cha đến khi thịt bị cháy khét. Nhưng cha luôn khẳng định:

- Tôi không bao giờ tham gia với Lê Văn Khôi. Tôi chỉ làm việc tông đồ, rao truyền đạo Chúa.

Thấy không buộc được tội tham gia phản loạn, quan bắt tội giảng đạo và bảo đạp lên thập giá. Nhưng vị anh hùng đức tin tuyên bố thà chết chớ không thể thất trung với Chúa. Và kết quả là cha hưởng được án bá đao, một cực hình kinh khủng nhất mà chỉ một mình cha được lãnh nhận. Đó là phần thưởng lớn lao dành cho người Chúa thương.
Sáng sớm ngày 30 tháng 11 năm 1835, quân lính điệu vị anh hùng đức tin ra pháp trường Thợ Đúc. Bốn lý hình đã chực sẵn: một tên cầm kềm, một tên cầm dao, một tên đếm cho đủ 100 miếng thịt cắt ra, còn tên kia biên vào sổ.

Sau hồi trống hiệu, lý hình bắt đầu cắt miếng da trên trán, rồi xẻo từng miếng thịt trên ngực, trên tay… cho đến khi đủ 100 miếng… Thử hỏi trên thế gian nầy có đau đớn nào bằng? Còn cực hình nào hơn? !... Đã vậy, sau khi vị chứng nhân tắt thở, quân lính còn cắt đầu ngài, chặt thân mình ngài ra làm bốn, ném xuống sông, còn đầu thì xay nát rồi rắc xuống sau. Thật là một cái chết vô cùng thê thảm ! Thiết tưởng không còn bằng chứng nào hùng hồn mạnh mẽ hơn nữa của niềm tin vào Thiên Chúa…

Đức Thánh Cha Lê-ô 13 đã phong Chân phước cho cha Giu-se Du ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Giáo Chủ Gioan Phaolô 2 suy tôn ngài lên Hiển Thánh.

* Quyết tâm
Quyết chí một lòng trung thành với Chúa, tận dụng thời giờ Chúa ban để mở rộng Nước Chúa, và sẵn sàng chịu mọi khốn khó để làm chứng cho Chúa, theo gương thánh Giu-se Du, Linh mục thừa sai tử đạo.

* Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.

Bài viết liên quan:
 Tags: n/a

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây