Sau ba mươi phút thư giãn, giáo sư Trần Văn Đoàn thuộc Hàn Lâm Viện Công Giáo Á Châu trình bày đề tài, ĐẠO THỜ KÍNH TỔ TIÊN, BÀI HỌC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRUNG HOA. Giáo sư Đoàn thuyết trình bên ngoài bản văn viết cho hội thảo, với lối nói dí dỏm sống động, giáo sư xác nhận, lối chuyển dịch sai ý nghĩa những từ ngữ như “tổ tiên, thánh nhân, tôn, thờ, vái lạy” là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiểu lầm đạo hiếu Trung Hoa và thái độ cấm đoán những nghi thức tôn kính tổ tiên và nhấn mạnh, tổ là người sinh ra. Vị tổ cao nhất là Thiên, Đấng vĩnh hằng đã sinh ra mọi loài, tiếp tới là cha mẹ sinh ra con cái, cha mẹ sinh ra sự sống nhỏ, còn thánh nhân là những người bảo vệ sự sống lớn của dân tộc. Từ tôn là hành vi như cúi đầu, bái, quỳ, lạy diễn tả mối tương quan với bề trên. Tôn không chỉ dành riêng cho Đấng Tối Cao (Thiên). Hoà vào lối hiểu đó, con người có đạo, đạo là mục đích, phương thế, là đường đi, là nguyên tắc ứng xử trong cuộc sống. Đạo uyển chuyển trong dòng đời nên có đạo hiếu, đạo sống và đạo bị khuôn ép sẽ không còn là đạo. Đạo sống của Việt Nam đến từ văn hoá Trung Hoa nhưng đã biến đổi thành đạo sống Việt Nam với nhiều điểm khác với đạo sống Trung Hoa. Chẳng hạn Ông Trời (Việt Nam) khác với Thiên Chúa (Thiên của Trung Hoa). Ông Trời Việt Nam nhiều nhân cách hơn, và bài vị được sử dụng tại Việt Nam ít hơn Trung Hoa. Trong phần kết luận, giáo sư Trần văn Đoàn mong muốn những áp dụng thực tế về lòng tôn kính tổ tiên được một nền thần học thức thời soi sáng.
ĐỊNH HƯỚNG LÒNG TÔN KÍNH TỔ THIÊN THEO LỐI NHÌN THẦN HỌC
Sáng ngày thứ nhì 26-09, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp mở đầu bài thuyết trình với lời mở: “Câu chuyện MC vừa kể rất hợp với bài trình bày của tôi”. Các hội thảo viên nhớ ngay câu chuyện ở phần dẫn vào đề tài. Nghe kể một buổi chiều mùa hè, Chúa Giêsu tới dự một trận bóng đá giữa một đội tuyển Tin Lành và đội tuyển Công giáo. Hôm ấy các cổ động viên Tin Lành và cổ động viên Công giáo ngồi chật cả khán đài. Ngài say sưa theo dõi từng đường banh, từng cú sút ngoạn mục. Bất chợt Công giáo sút thủng lưới Tin Lành. Chúa Giêsu đứng bật dậy, vỗ tay, huýt sáo reo mừng làm các cổ động viên Công giáo vui như mở hội, họ chắc mẩm, “Thày đứng về phe mình, còn ai thắng nổi!” Nhưng ngay sau 5 phút, đội Tin Lành phục thù với cú sút như trời giáng. “Một đều”. Người ta chú ý ngay, trên khán đài danh dự, người khách danh dự nhất, Chúa Giêsu đang vừa vẫy nón vừa nhảy điệu chiến thắng còn các cổ động viên Tin Lành hò la vang trời, “Thày ủng hộ chúng ta!” Riêng phe Công giáo sững sờ, “Sao lạ vậy, chẳng lẽ Chúa đi hàng hai! Công giáo thắng Chúa cũng vỗ tay, Tin Lành thắng cũng hoan hô!”. Ai chẳng biết giai thoại vẫn là giai thoại, nhưng giai thoại này có thật, thật ở tâm lý bên này bên kia. Mỗi bên đều muốn nhốt kín Chúa trong vòng tròn phe mình! Đức cha Phaolô nối nhịp, Chúa Giêsu không chỉ đi hàng hai nhưng còn đi hàng ba, hàng năm, hàng bảy là thường! Và biết mình sắp bước vào một “siêu đề tài nói với các siêu nhân”, ngài nói vui, “Tôi sắp nói những chuyện trên trời, ai ngủ thì cứ ngủ” nhưng ý là “ngủ cũng không được với tôi!” Với đề tài VAI TRÒ CỦA CÁC TÔN GIÁO KHÁC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ, tuy trình bày những chuyện trên trời, thuyết trình viên đã đưa người nghe tiếp cận với dòng chảy đầy biến động của tư tưởng thần học đan xen nhau trong lịch sử Giáo hội về Đức Kitô Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát, ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ. Rõ ràng đây là những tiền đề thần học sát sườn với những ai đang tha thiết đi tìm những áp dụng thực hành lòng tôn kính tổ tiên. Đức cha men theo Thánh Kinh và huấn quyền Giáo hội mở ra hướng nhìn của Thần Khí học, “Công đồng đã nhìn nhận các tôn giáo như những con đường cứu độ” (Hiến chế Lumen Gentium 16-17, Tuyên ngôn Nostra Aetate số 2 và Sắc lệnh Ad Gentes 3,9,11). Và chấp nhận sự hiện diện của Thánh Linh ở bên trong cũng như bên ngoài, Đức Gioan Phaolô nhìn thấy nơi các tôn giáo khác “những phản ảnh của chân lý duy nhất, các hạt giống của Ngôi Lời (Thông điệp Redemptor Hominis, 11) đang dẫn dắt nhân loại về một hướng duy nhất, bất chấp những con đường chọn lựa có khác biệt nhau đến đâu chăng nữa...”
Sau một giờ mướt mồ hôi đánh vật với đề tài gai góc, Đức cha nở nụ cười rạng rỡ mãn nguyện có vẻ cũng là nụ cười “lấy lòng” các hội thảo viên cũng đang mướt mồ hôi sau một giờ bám theo thuyết trình viên. Cuối cùng vị thuyết trình viên giám mục đi vào kết luận, “Chương trình cứu độ của Thiên Chúa chỉ là một và bao trọn tất cả lịch sử nhân loại. Biến cố Nhập Thể của Ngôi Lời trong Đức Giêsu Kitô là cao điểm của tiến trình tiệm tiến qua đó Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người. Hành động ‘làm người’, cuộc sống nhân loại, giáo huấn, cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài nói lên ý nghĩa sâu thẳm và tuyệt vời nhất tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại”.
Bài thuyết trình thứ hai sáng ngày 26-09 được gửi gắm cho linh mục Giuse Vũ Kim Chính, Dòng Tên, mới trở về từ Đài Loan. Cha Chính là giáo sư trường Đại học Phụ Nhân, Đài Loan. Vừa vào đề cha hứa hẹn ngay, “Sáng sớm nay Đức cha Phaolô đã nói những chuyện trên trời, còn tôi, tôi sẽ kéo chuyện trên trời xuống đất”. Và với tiếng lời, cử chỉ bình thản cha vào đề TRONG BỐI CẢNH TAM GIÁO, THỬ TÌM MỘT NỀN THẦN HỌC VỀ TÔN GIÁO (ĐẠO HIẾU). Trước hết cha đưa hội thảo viên về với những vấn đề lớn của tôn giáo như tôn giáo là gì, đâu là căn tính của tôn giáo, tam giáo có phải tôn giáo? Cha xác định, Tôn giáo biểu lộ ý nghĩa của cuộc sống và cũng xác định tam giáo là tôn giáo, từ đó mở đề tài sang đạo hiếu và đi tìm căn nguyên việc tôn kính ông bà: “Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên” (Sách Lễ ký). Ở Việt Nam, dù được trực tiếp tế tự “Trời” hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới “Thiên nhân tương dữ”. Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Theo cha, Đạo Hiếu ở văn hoá bình dân là yếu tố quan trọng liên đới giữa Tam Giáo, đạo hiếu thường bắt nguồn từ những huyền thoại, nhất là từ giai thoại các bậc anh hùng dân tộc hay thần thoại của các vị vĩ nhân. Như đền thờ Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng hay Quan Vân Trường, Quan Âm Thị Kính... họ chấp nhận mọi chư thần, như là các bậc thần linh, phần lớn với một thái độ là “kính nhi viễn chi”, nếu họ cảm thấy các thần linh đó không có quan hệ gì với họ và không nằm trong phạm vi đạo hiếu của họ.
Vừa sang phần thảo luận, giáo sư Trần Văn Đoàn thở phào ngỏ ngay với đồng nghiệp, “vậy là hết một buổi sáng, cả Đức cha Phaolô và cha Chính đều nói chuyện trên trời!” Nhưng ai chẳng biết, cả hai thuyết trình viên đều thiết tha góp những suy tư thần học định hướng cho những áp dụng thực tế biểu tỏ lòng tôn kính ông bà tổ tiên.
HƯỚNG TỚI NHỮNG SÁNG KIẾN THỰC HÀNH VỀ LÒNG TÔN KÍNH TỔ TIÊN
Hai buổi chiều ngày 25 và 26-09 dành để thảo luận tìm những sáng kiến thực hành lòng tôn kính ông bà tổ tiên theo huấn thị Plane compertum Est và thông cáo của Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam, do linh mục Tổng thư ký Uỷ ban Văn hoá Giuse Trịnh Tín Ý điều hợp. Thêm vào những góp ý tại chỗ, còn những đóng góp từ khắp nơi, do các linh mục tu sĩ và các thành phần Dân Chúa nhận được lời mời góp suy tư và sáng kiến từ trên mạng Hội đồng Giám mục, mạng các giáo phận và nhiều trang mạng khác. Ban Thư ký ghi nhận các góp ý, hình thành bản góp ý của hội thảo sẽ được trình lên Hội đồng Giám mục.
Trước khi chia tay, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ tịch Uỷ ban Văn hoá trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam tha thiết ngỏ lời cùng các hội thảo viên: Thứ nhất, ghi nhận về những ngày gian truân của quá khứ hướng tới tương lai trong tình thân và hiệp thông của hội thảo viên; thứ hai, cám ơn các hội thảo viên đã góp mặt, góp ý và các thuyết trình viên góp suy tư định hướng; ngài cũng cám ơn tất cả những bàn tay khối óc đóng góp vật chất và tinh thần cho cuộc hội thảo diễn tiến tốt đẹp; và thứ ba, ước hẹn gặp lại mọi người trong lần hội thảo kế tiếp.
Với Đức cha, cuộc hội thảo được thấy như là cuộc hội thảo của Ký Ức và Thao Thức. Phải, hội thảo đã có nhiều ghi niệm đẹp để nhớ và cũng còn bao nhiêu gút mắc trăn trở và biết mấy tâm tình cho thao thức trước cánh đồng truyền giáo mênh mông Việt Nam và cả vùng Á Đông.
Uỷ ban Văn hoá / HĐGMVN