Giáo xứ Vinh Hương

Theo Giáo Luật, người ly dị tái hôn có cách nào để được rước lễ không?

Thứ sáu - 13/11/2015 18:12

Vấn đề rước lễ của người đang sống rối hôn phối như người ly dị tái hôn hay người đang sống trong hôn nhân bất thành do chỉ có kết hôn dân sự, được bàn luận theo quy tắc Giáo Luật.

Theo Giáo Luật, người ly dị tái hôn có cách nào để được rước lễ không?
 
Để minh giải xin chia vấn đề bằng những câu hỏi nhỏ hơn.

1. Trong bộ Giáo Luật có điều nào cấm rước lễ không?
- Có hai điều, được quy định trong quyển 4, đề mục 3, về Bí Tích Thánh Thể.

Điều 915
Những người bị vạ tuyệt thông và những người bị cấm chế sau khi hình phạt đã được tuyên kết hay tuyên bố, cũng như những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường (in manifesto gravi peccato obstinate perseverantes), không được rước lễ.

Điều 916
 Người nào ý thức mình đang mắc tội trọng (conscius est peccati gravis) thì không được cử hành Thánh lễ và cũng không được rước Mình Thánh Chúa, nếu không nhận lãnh bí tích sám hối trước, trừ khi có lý do nghiêm trọng và không có dịp để xưng tội, trong trường hợp này, người ấy phải nhớ rằng mình phải ăn năng tội cách trọn, trong đó bao gồm việc quyết tâm xưng tội hết sức.

-         Ngoài ra khi phạm nhân bị vạ tuyệt thông (đ. 1331) hoặc bị vạ cấm chế (đ. 1332) thì bị cấm cử hành hay lãnh nhận các bí tích. Vì vậy, phạm nhân không được rước lễ. Tuy nhiên, Giáo Luật không quy những người ly dị tái hôn vào tội có  vạ tuyệt thông hay cấm chế.

2. Người ly dị tái hôn hay người chỉ kết hôn dân sự ngoài luật Công Giáo bị cấm rước lễ là áp dụng theo điều luật nào?
Đó là điều 915, vì người đó được kể là những “người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường”.
Cũng bị cấm theo điều 916, vì “ý thức mình đang mắc tội trọng”.

Tuy nhiên cũng dễ thấy rằng nhiều người không thấy mình hay không ý thức mình có tội trọng vì hoàn cảnh riêng của họ. Có những phạm nhân đã bị bó buộc phải tái hôn, như trường hợp là nạn nhân của sự ruồng bỏ mà không do lỗi tại họ và sau đó họ thấy mình không thể nào sống độc thân suốt đời và thấy mình không có tội nặng khi tái hôn. Các nguyên tắc luân lý Công Giáo chỉ rõ rằng một hành vi được thực hiện dưới sự sợ hãi nghiêm trọng hay cưỡng ép có thể không chịu trách nhiệm hay giảm miễn trách nhiệm về hành vi mình thực hiện. Vì vậy họ có thể chỉ có tội nhẹ hay không có tội. Việc ý thức mình không có tội nặng và được nguyên tắc luân lý nói trên chi phối còn xảy ra nơi những người đã cố tình phạm tội lúc đầu mà nay đã sám hối nhưng không thể lìa bỏ hôn nhân trái luật mình đang có.  Họ không thể quay trở lại hôn nhân ban đầu vì hoàn cảnh riêng biệt của họ, như không thể chấm dứt hôn nhân hiện tại mà không gây thiệt hại nặng nề về phía con cái.

Đối với những người trong tình trạng trên, họ rước lễ thì không vi phạm điều 916, vì họ không thấy mình phạm tội trọng và thấy mình không xúc phạm đến Mình Thánh Chúa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã cho thấy những hoàn cảnh tương tự: “Thật thế, những người đã thành tâm cố gắng cứu vãn cuộc hôn nhân thứ nhất nhưng đã bị ruồng bỏ một cách bất công, thì khác hẳn với những người do sai lỗi trầm trọng đã phá huỷ cuộc hôn nhân thành sự theo giáo luật. Sau nữa cũng có trường hợp những người đã lấy một người khác để giáo dục con cái và đôi khi trong lòng cứ chủ quan tin chắc rằng cuộc hôn nhân trước, mà bây giờ đã bị phá huỷ không sao cứu vãn được, xưa nay vẫn không hề thành sự” (Familiaris Consortio, 84).

Tuy nhiên họ không được rước lễ là do kỷ luật của Giáo Hội. Họ bị cấm rước lễ là do luật cấm của điều 916. Đức Gioan Phaolo II, sau khi nhìn nhận những hoàn cảnh đáng thương của họ, ngài kêu gọi:  “Bằng một lòng bác ái rộng lớn, tất cả sẽ làm thế nào để họ không cảm thấy bị lìa xa Hội Thánh, vì là những người đã được rửa tội, không những họ có thể mà còn phải dự phần vào đời sống Hội Thánh”(Familiaris Consortio, 84). Khi ngài nói họ “có thể mà còn phải dự phần vào đời sống Hội Thánh” thì cũng có nghĩa là ngài công nhận họ không hoàn toàn mang trọng tội, và còn có đời sống ân sủng. Ngài nói tiếp: “Tuy nhiên, Hội Thánh vẫn xác nhận lại kỷ luật của mình, kỷ luật xây dựng trên Thánh Kinh, theo đó Hội Thánh không thể chấp nhận cho những người ly dị tái hôn được hiệp thông Thánh Thể”. Như vậy, những người đó, không được rước lễ là vì kỷ luật của Giáo Hội, được quy định ở điều 915.

3. Theo Giáo Luật lệnh cấm rước lễ trong hai điều  915 và 916 có được miễn giảm không?
Điều cấm ở 916 thì không thể miễn giảm vì khi ý thức có tội trọng nghịch cùng Chúa mà rước Mình Thánh Chúa là xúc phạm đến Chúa. Tuy nhiên nó là luật của tòa trong, nếu như không  thấy mình có tội trọng thì có thể được rước lễ.

Nếu không thấy mình có tội trọng thì được rước lễ theo điều 916 nhưng lại bị cấm rước lễ theo điều 915. Như vậy việc cấm rước lễ ở điều 916 có ý nghĩa như một hay một hình phạt một khi phạm nhân không thấy mình có tội trọng, không thấy mình làm như vậy là xúc phạm đến Chúa.

Ở đây cần xác định rằng trong nhiều trường hợp, bị cấm rước lễ là bị một chế tài hay một hình phạt. Và vì đó là hình phạt thì có thể được tha giảm bởi Đấng Bản Quyền (Đức Giám Mục Giáo phận, cha Tổng Đại diện, cha Đại Diện Giám Mục), theo quy tắc của điều 1355 và 1356.

4. Việc Đấng Bản Quyền cho phép rước lễ nghịch với luật Giáo Hội như vậy có sai lạc không?
Như đã phân tích theo nguyên tắc của luật nên việc tha giảm hình phạt không có gì là nghịch với Giáo Luật. Nếu cho phép người ý thức mình phạm tội trọng rước lễ, thì nghịch với luật Giáo Hội, vì để sự xúc phạm đến Chúa xảy ra, vì nó đi trái với thần học luân lý. Còn việc tha giảm sự chế tài theo nguyên tắc của luật, trong khi trong tâm hồn phạm nhân không thấy mình có tội trọng, là không có gì sai lạc.

Vấn đề là phải cân nhắc là việc tha giảm hình phạt như vậy có gây ra những tai hại khác không, như gây gương mù gương xấu, coi thường sự bất khả phân ly của hôn nhân… Tuy nhiên khi cân nhắc như vậy Đấng Bản Quyền cũng không quên rằng có những tai hại khác lớn hơn, như dễ gây ra tình trạng sống xa Giáo Hội, tách biệt khỏi Giáo Hội và cũng không quên rằng rằng Giáo Hội là người Mẹ nhân từ cũng là vị thẩm phán nhân từ.

5. Việc miễn giảm chế tài như thế nào phù hợp?
Đó là tùy theo sự phân định của Đấng Bản Quyền. Ngài có thể không miễn giảm hay cho miễn giảm với quy định là được rước lễ một số lần hạn chế trong một năm, ví dụ chỉ cho được rước lễ 3 lần trong một năm trong dịp lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, ngày con cái được xưng tội, rước lễ lần đầu, hoặc nhiều hơn là vào các ngày lễ trọng của Chúa hay Đức Mẹ…

Để vẫn dung hòa với kỷ luật của Giáo Hội đang hiệu lực, Đấng Bản Quyền không nên tha giảm nhiều mà không hạn chế. Việc tha giảm nay có thể coi như là ban một ân xá hay một đặc ân vì lợi ích các linh hồn.

6. Việc cho được rước lễ như vậy phải theo hình thức luật nào?
Đấng Bản Quyền không được ra một sắc lệnh chung (decretum generale) vì nó có nghĩa như ra một luật chung, áp dụng phổ quát cho nhiều người, trái với luật Hội Thánh. Tuy nhiên ngài có thể ra một phúc đáp hay phúc chiếu để ban ơn tha giảm cho từng người xin. Đó  là một hành vi hành chính riêng biệt, cho từng cá nhân một chứ không ra một luật riêng của Giáo Hội địa phương. Một cách đơn giản hơn, là ngài ký nhận chấp thuận cho rước lễ một số lần nào đó ở phần cuối đơn xin của phạm nhân.

 

Tác giả bài viết: Lm. JB. Lê Ngọc Dũng

 Tags: n/a

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây