Giáo xứ Vinh Hương

Đời độc thân linh mục - bài 4, bài 5

Thứ tư - 11/11/2020 18:26
“SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”
VÀ ĐỜI ĐỘC THÂN LINH MỤC

 
1. Tất cả đều có đôi
2. Tính dục mầu nhiệm
3. Khám phá lại thân xác
4. Độc thân như một đề nghị từ Tin Mừng
5. Độc thân như một dấn thân của đời linh mục
6. Mẻ lưới rỗng và mẻ lưới đầy
7. Chỉ tình yêu của Đức Kitô thúc bách.

Linh mục với tính dục: Trao hiến và Phục vụ

Thiên Chúa dựng nên con người có đôi. Người nam và người nữ được “làm ra” tách biệt nhưng không đối nghịch. Họ khác biệt để hướng về nhau, bổ túc cho nhau. Họ xuất hiện như một “cặp biện chứng”. Số phận người này phụ thuộc người kia.

Vẻ đẹp của thân xác và tâm hồn của cả hai giới trên là sức hút và lôi cuốn cho nhau. Hai người được tạo dựng để trở thành quà tặng cho nhau. Hai người được tạo dựng để trở thành “quà tặng” cho nhau, như là những-nhân-vị-không-thể-thay-thế, không-thể-sao-chép. Ở trước mặt nhau như là đối tượng khác biệt, nhưng lại có xu hướng sâu thẳm hòa nhập để trở thành cặp đôi vĩnh viễn không thể xa lìa.

Linh mục là con người như mọi người. Linh mục đi tìm “nửa mình” nơi mọi người nam-nữ, đặc biệt, nơi Đức Kitô ở trong mọi người nghèo khổ.

Lý tưởng đó được theo đuổi và thực hiện bởi hàng triệu triệu người nam-nữ, qua các thế hệ, thời đại từ hơn hai ngàn năm nay. Đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô trong Tin Mừng, họ đã tự nguyện chọn “nếp sống độc thân”, như phương thế hữu hiệu để phục vụ các linh hồn. Thành công hay thất bại, tùy thuộc vào sự trung thành của họ với lời mời gọi của Đức Kitô.

Đôi dòng tóm lược những ý chính của 7 Bài giảng cho các linh mục Giáo phận Ban Mê Thuột, trong Tuần Tĩnh Tâm thường niên từ 9.11.2020 đến 13.11.2020, do Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, hướng dẫn.



Bài 4
ĐỘC THÂN NHƯ MỘT ĐỀ NGHỊ TỪ TIN MỪNG
 
Đọc 1Cr 7, 32-38

1. Chúng ta sẽ suy tư về đề tài liên hệ đến chúng ta rất sâu xa và quyết liệt: độc thân. Chúng ta sẽ lần lượt nói về sự độc thân như một lời đề nghị từ Tin Mừng và rồi độc thân như một sự dấn thân sống chức linh mục.

Chúng ta muốn gạn lấy những điểm tích cực và phong phú trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha và hiểu được tầm quan trọng của linh đạo của sứ vụ linh mục thừa tác.

Chúng ta có một Tôn sư, hơn tất cả mọi người, biết những gì ở trong tâm hồn con người, và, biết điều gì thích hợp nhất cho sứ vụ chân thực và đem lại hoa quả tốt nhất cho chúng ta, là những mục tử được ủy thác bời vị Mục Tử tối cao.

Một đặc sủng biệt lệ

2. Độc thân tự nguyện và hôn nhân cả hai đều là những hồng ân tốt đẹp và đáng quí về mặt thiêng liêng. Thánh Phaolô nói: “Mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng, người thế này kẻ thế khác” (1Cr 7, 7).

Độc thân bởi tự do chọn lựa vì Tin Mừng là một đặc sủng (chàrisma), nghĩa là một ơn của Chúa ban cho cá nhân nhằm lợi ích của cộng đồng. Độc thân để bớt bận tâm lo lắng việc đời chỉ chuyên tâm cho việc Nước Trời: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tin cách làm đẹp lòng Người” (1 Cr 7, 32); và không cảm thấy bị “giằng co” (1 Cr 7, 34). Nhưng về cơ bản độc thân nhằm tới cùng đích là “Nước Trời” và xác định hiệu quả của Nước Trời hơn giữa những bấp bênh và mâu thuẫn của thế gian.

Dù đặc sủng nào cũng là ơn Chúa ban đáng quí trọng, nhưng theo thánh Phaolô chọn lựa sống độc thân về khách quan vẫn hơn (có lẽ vì thời Cánh Chung đang đến gần): “Ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn” (1 Cr 7, 38) và ngài còn nói: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1 Cr 7, 7).

3. Đức Giêsu nói về chuyện độc thân (“hoạn”) có một sức diễn đạt kì lạ: “Có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).

Người nói: “Không phải ai cũng hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu” (Mt 19, 11). Chúa thích điều gì hơn ai cũng rõ, nhưng đồng thời cũng hiểu độc thân thánh hiến là một ơn hãn hữu, và trong mọi trường hợp nó không phổ biến như ơn gọi hôn nhân. Người cũng nói: “Ai hiểu được thì hiểu”. “Ai hiểu được”: có nghĩa đây không phải là một bậc sống (tình trạng- sống thường xuyên) dành cho hết mọi người. “Thì hiểu”: diễn tả một ước muốn sống động được biến điều có thể ấy thành một thực tế.

Vì Nước Trời

4. “Vì Nước Trời”

“Nước Thiên Chúa” hay “Nước Trời”, theo ngôn ngữ của Phúc âm, là một thực tại vừa mang chiều kích cánh chung vừa mang chiều kích Giáo hội. Độc thân vì Nước Trời trước hết như là một lời tiên tri loan báo trước thế giới tương lai, thế giới của phục- sinh, khi “người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22, 30).

Tương tự như bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, đời sống độc thân khiết tịnh hoàn hảo bởi tự do chọn lựa là một sự hiện diện của Nước Thiên Chúa trong lịch sử. Đó là một lời loan báo và là hoa quả đầu mùa của thế giới vĩnh cửu của Thiên Chúa mà mọi người khao khát. Về mặt này, ta có thể nói rằng độc thân khiết tịnh còn có một bản tính bí tích nào đó.
Nó vừa ám chỉ vừa hiện thực hóa thực tại cánh chung, và như thế, chính bậc sống ấy là một thứ bí tích, không cần có thêm một bí tích nào khác để xác định và thánh hiến nó.
Nhưng nó không thiếu mầu nhiệm sự sống phục sinh vốn đã có mặt rồi ở thế giới này cũng như không thiếu chiều kích giáo hội. “Vì Nước Trời” cũng có nghĩa là: nhằm đến việc thiết lập và phát triển Nước Thiên Chúa ở dưới thế này và vào lúc này, trong thực tại Hội Thánh (là Nước Thiên Chúa “iam praesens in mysterio”, như Công Đồng Vatican II nói).

Lịch sử Giáo hội xác nhận diều ấy cách rõ ràng: chỉ cần nghĩ tới sức sống Tông đồ vô cùng lớn và tình yêu đã được tuôn đổ vào Dân Chúa dọc dài các thế kỷ nhờ đặc sủng đời sống dâng hiến là đủ thấy rõ.

Để cứu vớt đời sống tinh dục

5. “Chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” đời sống độc thân dâng hiến, vốn đã được Hội Thánh đón nhận và tôn vinh, đối với toàn thể thế giới cổ đại là một điều hoàn toàn mới mẻ, và một cách nào đó, còn là một “gương xấu”. Độc thân khiết tịnh là một dấu chỉ gây kinh ngạc mạnh mẽ cho nhân loại, như một điều gì đó bất ngờ chấn động thế giới khi ấy vốn đã già nua, và cho ta hiểu rằng Thiên Chúa nay đã đến ở giữa chúng ta (Emmanuel) và Nước của Ngài đã bén rễ vào trong thế gian.

Dưới ánh sáng của nó, ta thấy đời sống tính dục và hôn nhân được cứu vớt và được nâng cao đến một trật tự mới được khai sinh từ cuộc Khổ nạn của Đức Kitô.

Hơn bao giờ hết, ta cần cấp thời và nhiệt thành giới thiệu nhân tố “cách mạng” này của Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho thời đại ngày nay, để tái lập cân bằng cho một nền văn hóa vốn về mặt này đã rất suy đồi.

Nền văn hóa thời đại hôm nay phổ biến tư tưởng cho rằng chuyện sinh hoạt tình dục của người ta là “tuyệt đối”, không thể bị khống chế bởi một lề luật hay cứu cánh nào; cho rằng sinh hoạt tình dục không có lí do tồn tại nào khác ngoài chính nó; rằng tính dục giải thích mọi động thái của con người và nó không cần được khai sáng bởi bất cứ cái gì bên ngoài nó. Tư tưởng giả trá sai lạc đó dẫn đến những hệ lụy bi đát như: quan hệ nam - nữ trở nên tùy tiện, không mục đích, không ánh sáng; sau cái gọi là cuộc “giải phóng tình dục”, hoạt động tính dục (sự “làm tình”) chỉ đưa đến đau buồn, hoang mang, xa lánh nhau, như bị rời xuống vũng lầy của vô nghĩa; định chế hôn nhân, với những luật lệ qui tắc và cứu cánh, cuối cùng bị xem như một điều gì cổ lỗ, lỗi thời.

Điều đầu tiên nền “văn hóa” này cần được thương cứu vớt là khơi dậy lòng khát mong sự thật. Kitô giáo đáp ứng bằng đề nghị sống trinh khiết hoàn toàn và mãi mãi như một lí tưởng khả thi và đáng mong ước.

Chúng ta cần hiểu và giúp người khác hiểu rằng quan hệ tính dục có bản tính là “tương đối”. Nó là tương đối so với tình yêu, vì nó phải chỉ là hệ quả và biểu lộ của tình yêu. Nó tương đối so với sụ sống, vì nó phải mở ngõ cho sự sống. Bởi vì tình yêu - sự sống mới là cứu cánh. Nó tương đối, trong chiều sâu bản thể, so với mầu nhiệm cội nguồn của các sự vật hiện hữu, nghĩa là mầu nhiệm hôn phối “Đức Kitô toàn thể” (“Christus totus”), thực tại mà nó là hình ảnh sống động.

Thế nên, đời dâng hiến trinh khiết Kitô giáo, như một lối diễn tả tình yêu khác và không kém chân thực; như một nguyên lí lan tỏa sự sống thần linh khác và không kém hiệu quả; như một “linh ảnh” khác và trực tiếp hơn của “tiệc cưới vĩnh cửu”, ban cho mối quan hệ nam-nữ một kích thước đúng đắn; là một kích thước cao sang, nhưng cũng cụ thể, và không chấp nhận những đổi thay có tính thế tục có thể làm nó suy thoái hay biến chất.

Nói cách đơn giản hơn: chỉ trong một Kitô giáo biết bảo vệ và tôn vinh dời sống trinh khiết, thì tính dục, đời sống phu thê, định chế hôn nhân mới được cứu thoát khỏi những ngu muội làm mục nát con người.

Vấn đề mục vụ thực sự không phải là hòa hợp những đòi hỏi của Tin Mừng với những đồi bại của một xã hội no nê và suy thoái, nhưng là biết cách trình bày lời khuyên của Tin Mừng trong toàn thể của nó và của sức mạnh kì diệu của nó.

Dấu hiệu sự hiện diện của Đức Vua

6. Trong Thánh thi Giáng sinh thánh Ambrôsiô khẳng định rằng chính sự đồng trinh của Đức Maria là bảo chứng khách quan cho tính hiện thực của phép lạ Nhập Thể: “Talis decet partus Deum”[1] [sinh hạ (đồng trinh) như thế phù hợp với Thiên Chúa].

Cũng như những cờ hiệu hoàng đế (thời Roma cổ đại) báo hiệu bên ngoài rằng quốc vương đã ngự giá trong cung điện ngài, cũng thế sự khiết trinh tinh tuyền của người Mẹ đã chỉ báo trong cung điện và nơi rất thánh cung lòng Người Đức Vua hoàn vũ đã thực sự ngụ cư: “Vexilla virtutum micant: versatur in templo Deus” [cờ hiệu trinh khiết lấp lánh đó: Thiên Chúa cư ngụ đây trong Đền thánh Người][2]

Hình ảnh này có thể mở ra với chiều kích Giáo hội học. Chỉ một Giáo hội còn giữ được cách minh nhiên bậc sống “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” ấy và những dấu hiệu của đặc sủng này của Tin Mừng không bao giờ bị che phủ hay bị coi thường, mới có thể cho những con người ngay thẳng và thiện chí thấy được Giáo hội như là hoa quả đầu mùa của một nhân loại mới, trong đó Đấng Emmanuel đang sống, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử nhân loại.

Hướng đến sự độc thân linh mục

7. “Đặc sủng của ơn gọi linh mục, vốn nhằm đến phụng tự và phục vụ việc tôn giáo và mục vụ của Dân Thiên Chúa, thì khác với đặc sủng độc thân của đời sống thánh hiến”.[3]

Vì thế sự liên hệ giữa hai đặc sủng - được thiết lập bởi Giáo luật về sự độc thân của các thừa tác viên thánh - không trực tiếp rõ ràng, đúng hơn, liên hệ chỉ ngoại tại và thực tế. Nhưng vấn đề cũng đáng cho ta xem xét sâu xa hơn.

Hẳn là Giáo hội đã thiết lập mối liên kết giữa chức linh mục thừa tác và sự độc thân bằng một quyết định của mình; một quyết định có tính “lịch sử” và tích cực, nhưng hợp pháp và hợp lý.

Đó là một quyết định hợp pháp, bởi vì quyết định ấy được làm ở bên trong phạm vi năng quyền của Giáo hội muốn ổn định kỷ luật các sự kiện về Giáo hội, và không làm thiệt hại quyền lợi của ai cả. Về vấn đề này không bao giờ được quên rằng nhận một thừa tác vụ không nhằm để phục vụ quyền lợi cho một cá nhân: mọi thừa tác vụ là một trách vụ được giáo quyền hợp pháp trao phó cách tự do, không vì hợp với năng khiếu hay khuynh hướng của các cá nhân, mà đúng hơn vì ích lợi hơn của cộng đoàn.

Đó là một quyết định hợp lí. Để nhờ đến một cơ chế pháp luật bảo đảm cho “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” vì bậc sống độc thân tiếp tục có một hiện diện sống động trong lịch sử và trong ý thức của Giáo hội. Về việc này, chúng ta cũng có một chứng cứ phản biện của các Giáo hội Cải Cách. Họ đã cắt đứt mối liên hệ thế tục giữa độc thân và trách nhiệm mục vụ; nhưng thực tế họ cũng đánh mất luôn “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” như một sự kiện thường trực có tổ chức trong cuộc sống của Giáo đoàn.

Những nhận định này là đúng đắn nhưng vẫn còn một chút hời hợt và không giúp chúng ta nắm bắt toàn thể sự thật và ý định mạch lạc thâm sâu của Thiên Chúa. Nếu muốn đi sâu vào vấn đề, chúng ta phải quay về chiêm ngắm Chúa Giêsu, linh mục duy nhất và viên mãn của Tân ước. Mọi sự hiểu biết đích thật về chức linh mục thừa tác và các vấn đề của nó chỉ có thể khởi đi từ Người.
 
 
Bài 5

 
ĐỘC THÂN NHƯ MỘT DẤN THÂN CỦA ĐỜI LINH MỤC
 
Đức Kitô Tân Lang

1. Thắc mắc đầu tiên của chúng ta là: tại sao Đức Giêsu ở độc thân? Tại sao Người không kết hôn, dù đã đến tuổi trưởng thành lâu rồi và lại đang sống trong một xã hội người ta vốn không có tập tục sống độc thân?

Chúng ta không thể xem sự kiện này chỉ là chuyện ngẫu nhiên, không có nghĩa lí gì, hoặc xem vấn đề này là ngớ ngẩn và lố bịch. Trong cuộc sống của Đức Kitô không có chi tình cờ hay vô nghĩa. Với tất cả những gì Người làm và những sự kiện đã xảy ra trong đời Người, Người hoàn toàn là một “dấu lạ”; chúng ta phải đọc thấu đến tận cùng “dấu lạ” Đức Kitô này.

Đời độc thân của Đức Giêsu và của tiên tri Giêrêmia chắc chắn nhằm để diễn tả điều gì. Trong khi đối với Giêrêmia, độc thân của ông biểu trưng cho sự hoang tàn của Israel (cf. Gí 16,l), thì nơi Đức Giêsu đó là chứng cứ của một nhân loại không còn bị bỏ rơi và cô độc, nhưng trái lại được kêu gọi di vào hiệp thông hôn phối với Đức Chúa.

Đức Giêsu rõ ràng sống độc thân, thực ra theo nghĩa tuyệt đối Người là một “Tân Lang”: Người không kết hôn vì đã kết hôn rồi.

Tân ước hay nhắc đi nhắc lại chủ đề “Đức Kitô Tân Lang” (hay “Chàng rể”). Phúc âm Nhất Lãm nói đến qua các dụ ngôn tiệc cưới của con nhà vua (cf. Mt 22,2), các cô trinh nữ phù dâu trong đám cưới (cf. Mt 25, l), ông chủ đi ăn cưới về lúc giữa đêm (cf. Lc 12,38). Cũng còn phải kể đến những lời nói từ miệng Chúa Giêsu mà cả ba Phúc âm Nhất Lãm đều nói tới, trong đó Chúa Giêsu được trình bày như là “Chàng rể” và các môn đệ như là “những khách được mời dự tiệc cưới” (cf. Mt 9, 15; Mc 2, 19; Lc 5, 34). Phúc âm thứ tư nói Gioan Tẩy Giả xác nhận Đức Giêsu như là chàng rể “cưới cô dâu” (cf. Ga 3,29).

Sách Khải Huyền mô tả việc thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa như “tiệc cưới của “con Chiên”, mà cô dâu đã trang điểm sẵn sàng; “nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (cf Kh 19, 7-8). Ở đây người ta cũng nói đến, như trong Phúc âm Nhất Lãm, “các khách mời dự tiệc” (cf. Kh 19,9).

Thánh Phaolô cũng sử dụng hình ảnh phu thê chỉ tương quan của Đức Kitô với Hội Thánh, áp dụng hình ảnh “hiền thê” cho cộng đoàn Kitô, và dưới ánh sáng của hình ảnh này ngài đi sâu vào bản chất của mối tương quan kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh (cf. Ep 5,25-32).

Như ta đã thấy, Giáo hội sơ khai đã dùng đề tài “hôn phối” của Đức Kitô như là cơ bản để luểu biết cho đầy đủ mầu nhiệm cứu độ, và chúng ta cũng có thể lại thấy nó ở trong những bối cảnh khác của cộng đoàn Giáo hội nguyên thủy.

2. Thánh Phaolô nhìn thấy “bản chất thần học” của hôn nhân Kitô giáo nơi “mầu nhiệm” hôn phối của Đức Kitô và Hội Thánh (cf. Ep 5,32), nghĩa là biểu trưng và sự hiện diện của ân sủng thực tại hôn phối tối thượng kết hợp Đức Kitô và Hội Thánh thành “một xương một thịt”. Từ phân tích này của Thư Êphêsô cho ta hiểu ý nghĩa của sự độc thân của Đức Kitô.

Đức Kitô phải độc thân trong cuộc đời trần gian vì Người không thể là “dấu chỉ” của một thực tại lại cũng là chính thực tại tối thượng được chỉ đến. Nếu dây hôn phối giữa hai người đã được rửa tội là bí tích (nghĩa là một dấu chỉ hữu hiệu) của sự hiến thân của Đức Kitô kết hợp với nhân loại mới, thì Đức Kitô Đấng tự hiến trong hôn phối với nhân loại ấy dĩ nhiên không thể mặc lấy một hình thái bí tích nào nữa. Chính vì hôn nhân của loài người có lí do hiện hữu từ Đức Kitô, vốn là thực tại nền tảng và là nguyên lí, nên Người không thể có một lí do hiện hữu từ đâu khác (tức là từ hôn nhân loài người). Nếu, có thể nói là, thực tại hôn nhân đã bước vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và trong Đức Kitô hôn nhân loài người được biến đổi trở thành dấu chỉ mang sự sống thần linh, thì người ta không thể nghĩ Đấng tự thân là toàn thể thực tại hôn phối lại có thể đi vào phận số hôn nhân và được nó xác định.

Ý nghĩa hôn phối của Đức Kitô

3. Câu hỏi thứ hai được đặt ra là: Đức Kitô là Hôn Phu của Hội Thánh được hiểu như thế nào?

Cũng từ đoạn Thư gửi tín hữu Êphêsô trên ta tin ra câu trả lời.

Là Hôn Phu có nghĩa là Đức Kitô là “Đầu” của Hội Thánh, và Hội Thánh là thân mình của Người và tùng phục Người (cf. Ep 5, 23.24). Nghĩa là Đức Kitô đã cứu Nàng khỏi thân phận hư hoại của thế gian, đã ban cho Nàng Danh của Người, và như thế là đã cứu chuộc Nàng: “Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh” (Ep 5, 23). Nghĩa là Người đã yêu mến và vẫn yêu mến Hội Thánh, đến dộ hiến thân mình vì Hội Thánh (5,25). Nghĩa là, Người tái sinh Hội Thánh và thanh tẩy Hội Thánh không ngừng nhờ các bí tích và lời Chúa (5,26). Nghĩa là, Người kiên trì không mệt mỏi trong việc thánh hóa Hội Thánh để làm cho Hội Thánh “không tì ố, không vết nhăn, nên tinh tuyền, thánh thiện” (5,27). Nghĩa là Người “nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh” (5,30) như mục tử chăm sóc đàn chiên mình.

Như chúng ta thấy, bản tính hôn phu của Đức Kitô gợi ra tất cả những chức năng như “hướng dẫn”, “dạy dỗ”, “thánh hóa”, “chăn dắt”. Đấng Phục Sinh - tự giới thiệu mình như Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, là Tông đồ hoàn hảo nhất – đã chuyển trao những nhiệm vụ ấy cho các Tông đồ, tức là những kẻ Người sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).

Đó là các nhiệm vụ, theo chứng cứ của Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu đã trao lại cho các kẻ “Người sai đi” trong lệnh truyền sau cùng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19.20). Đó cũng chính là các nhiệm vụ đã được ủy thác cho chức linh mục.

Linh mục, bí tích của Đức Kitô Hôn Phu

4. Linh mục thừa tác làm Chúa Giêsu hiện diện giữa Dân Chúa và dược nhận biết qua những phận vụ vương đế, giảng dạy và phụng tự của Người. Vì thế chức linh mục thừa tác, nhờ bí tích truyền chức, về bản thể, tham dự vào đặc tính hôn phu của Đức Kitô.

Bởi thế, linh mục là một thứ “bí tích” của Đức Kitô Hôn Phu, trong hành động hiến dâng cho Hội Thánh với nhiều vẻ khác nhau. Linh mục được kêu gọi chia sẻ cũng tình yêu phu thê (hay đức ái mục tử) đầy ắp trong Trái tim Chúa Giêsu, và từ đó tràn ra trên “dân tộc thánh thiện”.

Bởi hiệp thông trực tiếp với bản tính hôn phu của Đấng Cứu Chuộc, bản thân linh mục thừa tác - như Người, với Người và trong Người - cũng có “mầu nhiệm hôn phối”, là thực tại mà hôn nhân của một người nam và một người nữ là hình ảnh; ngay cả linh mục cũng “kết hôn” (Ga 3,29).

5. Kết luận này được xác nhận trong Giáo luật: tất cả các Giáo hội, dù Tây phương hay Đông phương, đã bảo tồn một chiều kích bí tích thật sự, đều cùng nhau không nhìn nhận thừa tác viên thánh chức (phó tế, linh mục, giám mục) có thể kí kết hôn nhân.

Luật chung biểu lộ trước hết ý muốn bảo đảm, bằng qui định pháp lí, “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” luôn tồn tại trong Kitô giáo; luật ấy hàm ẩn một nguyên tắc “lôgich bí tích”: chuyển tiếp từ “dấu chỉ” đến “thực tại” thì không phi lí, nhưng giả thiết chuyển từ cái đã là “thực tại” quay ngược về “dấu chỉ” thì không hợp lí.

Nguyên tắc này giúp ta hiểu về mặt thực hành, có hiệu lực ở một vài nơi trong Giáo hội, kêu gọi cả những người kết hôn đảm nhận chức thánh. Trong Giáo hội Đông phương, người kết hôn bình thường có thể nhận chức phó tế và linh mục (nhưng không nhận chức giám mục), trong Giáo hội la-linh điều đó có thể xảy ra đối với chức phó tế (còn đối với chức linh mục người đã kết hôn chỉ nhận trong một số trường hợp ngoại lệ đặc biệt).

6. Giờ đây, có lẽ đối chiếu bậc độc thân như lời đề nghị lừ Tin Mừng và sự độc thân như một dấn thân của đời linh mục sẽ ích lợi cho chúng ta.

Lối sống thứ nhất, vượt qua nẻo đường thông thường của hôn nhân, là một cách thức sống đặc biệt mầu nhiệm tình yêu mà Hội Thánh nuôi dưỡng vì Chúa của mình. Còn lối sống thứ hai được hình thành như là sự tham dự vào phận vụ hôn phu của Đức Kitô đối với cộng đoàn Kitô hữu, và được biện chính và nâng đỡ bởi tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh.

Ở bậc độc thân theo Tin Mừng ta hướng tới đồng nhất mình hoàn toàn với Hội Thánh Hiền Thê yêu mến, và hướng tới chia sẻ với Đấng cứu chuộc mình cuộc Khổ nạn độc đáo của Người.

Ở bậc độc thân của người Tông đồ, có thể nói, người ta bước vào trái tim của Chúa Giêsu để tạo lại cái đà sôi nổi của đấng Hôn Phu yêu mến và hiến mình cho “dân tộc thánh thiện”.

Cả hai bậc độc thân không phải là những tùy chọn loại trừ nhau. Ngược lại, cái thứ hai giả thiết có cái thứ nhất. Người ta không thể đảm lấy tình yêu mục tử của Đức Kitô nếu như người ta chưa muốn gắn bó không dè dặt với Chúa và nên một với Người, như Hội Thánh Hiền Thê là “một xương một thịt” với Hôn Phu mình.

Những điều kiện của sự trung thành

7. Trong viễn cảnh đó, ta có thể hiểu được rõ ràng những điều kiện tiên quyết và thiết yếu để vẫn mãi trung thành với “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô”, nhất là từ phía các thừa tác viên chức thánh. Những điều kiện ấy phát sinh từ một động thái mà chúng ta có thể gọi là “tâm lí học siêu nhiên”.

Điều kiện thứ nhất là làm sao để biết Chúa Giêsu rõ ràng, chắc chắn và không ngừng, làm sao để cho tình yêu cá nhân của tôi dành cho Người luôn sống động và tăng trưởng. Khởi đầu của bước đường dấn thân chúng ta không từ bỏ nhiều cho bằng là yêu mến hay phải lòng. Một sự từ bỏ xét như chỉ là hi sinh mà thôi không là lí do đủ mạnh để có thể kiên trì đến cùng. Chỉ khỉ ta tích cực khám phá ra giá trị của người ta yêu thương mới có thể rung thành với người ấy đến cùng.

Điều kiện thứ hai là biết nhận ra vẻ đẹp của Hội Thánh (dĩ nhiên với con mắt đức tin, cũng chính là cái nhìn của Đức Kitô trở thành của chúng ta). Không một tình yêu phu thê nào có thể được xác định trong con tim và trường tồn nếu người ta không nhận thấy được người phối ngẫu của mình đáng yêu và hấp dẫn.

Điều kiện thứ ba là quyết tâm muốn yêu mến (hay ít là cố gắng yêu thương mỗi ngày) con người với tâm hồn của Chúa Giêsu, Người nhìn con người như hình ảnh biến dạng của Chúa Cha và muốn phục hồi họ và cứu độ họ; Người muốn rằng chính những nét độc đáo của dung mạo người Con duy nhất và yêu dấu được tái tạo lại nơi họ, để Chúa Cha có thể nhận ra và đón nhận họ vào nhà Ngài.

8. Đối với thế gian và lí trí không cởi mở để được ân sủng trên cao khai sáng thì độc thân như là “chọn lựa ưu tiên của Đức Kitô” như thế xem ra quá cao vời đối với tầm mức nhân bản và không thực tế. Người ta không tin một lí tưởng độc thân theo Tin Mừng và độc thân của người Tông đồ như thế có thể thực hiện được trong thế giới này.

Thế nhưng bởi quyền năng của Thiên Chúa điều ấy đã được thực hiện. Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương hoàn hảo nhất cho mọi người chọn sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời. Mẹ là đại diện của tạo thành như hiền thê dâng hiến cho Đấng Tạo Hóa của mình. Còn mẫu mực bậc sống độc thân của người Tông đồ thì được thực hiện bời Chúa Giêsu. Trong Chúa Giêsu đã có một trái tim con người có khả năng dâng hiến minh bạch và chắc chắn cho ơn cứu độ nhân loại và thánh hóa Giáo hội. Về phần các linh mục, điều quan trọng là các ngài dấn mình vào Đức Giêsu Kitô và kết hợp thâm sâu với Người trong tình yêu mục tử này.

Cuộc sống của Chúa Giêsu và của Đức trinh nữ Maria - và việc chúng ta kết nối sống động với các mẫu gương cao cả và hiệu quả này của lòng quảng đại - có thể được hiện tại hóa cho thế giới hôm nay, bởi “sự hiện diện của Đức Kitô” nơi “những người được Thiên Chúa ban cho” (cf. Mt 19, 11).
 
Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn
- Giám mục Phụ tá TGP Sài Gòn

[1] SANT’AMBROGIO, Inno In Natali Domini.
[2] Ivi.
[3] Paolo IV, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, 15, 24/06/1967.

Nguồn tin: www.gpbanmethuot.com

 Tags: n/a

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây