ÁNH SÁNG ĐẤNG PHỤC SINH
Trong đêm vọng Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành nghi thức làm phép lửa và làm phép nến Phục Sinh. Một sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng được thể hiện rõ rệt: lửa và nến được làm phép trong sự bao trùm của bóng tối, nhưng khi ánh sáng của nến Phục Sinh được thắp sáng rộng rãi thì một bầu khí vui tươi tràn ngập cộng đoàn và rồi Thánh đường bỗng nhiên bừng sáng – cả ánh nến và đèn điện. Điều đó phần nào diễn tả ý nghĩa lớn lao của biến cố Phục Sinh: nếu Chúa không phục sinh thì vạn vật chìm ngập trong chết chóc và bóng tối.
Điều đáng lưu tâm là ánh sáng của cây nến Phục Sinh được lan truyền từ người này qua người khác, từng người một và rồi cả cộng đoàn rực sáng: ngọn nến sáng trên tay mỗi người tượng trưng cho đức tin của từng tâm hồn. Niềm vui Chúa Phục Sinh được ban tặng cho trần gian là một ân huệ nhưng không (do lòng thương xót Chúa, con người không xứng đáng) có thể được ví như vầng dương là trung tâm của hệ mặt trời, nhưng khác với mặt trời luôn chủ động và áp đặt tác động của nó trên vạn vật, niềm tin và niềm vui Chúa Phục Sinh phải được loan truyền cho nhau – từ người này qua người khác… đó là cách Chúa muốn và là một mầu nhiệm vẫn không ngừng diễn ra trên hành tinh này.
Ơn Cứu độ Chúa Giê su hoàn tất qua biến cố chết và phục sinh được áp dụng cho mọi người, không loại trừ một ai, thế nhưng Thiên Chúa chỉ âm thầm mời gọi – tác động, không áp đặt niềm tin vì tôn trọng tự do của con người. Bởi đó, khi sống lại, Chúa không làm những việc kinh thiên động địa, Ngài chỉ hiện ra với những nhân chứng đã tuyển chọn (Cv 10, 40), để rồi họ loan báo và làm chứng cho người khác. Sứ mạng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người khi họ chịu phép Rửa: thắp sáng niềm tin cho anh em mình. Ánh sáng Phục Sinh phải thắp lên từ Ngọn Nến Phục Sinh là Đức Ki tô (khác với việc lấy quẹt ga từ trong túi mình bật lên đốt nến cho mình và thắp chuyền cho người khác), điều đó muốn nói với ta rằng: đức tin của ta phải bắt nguồn từ lòng Thương Xót Chúa ban tặng, phải được nuôi dưỡng bởi sự tiếp xúc trực tiếp với Đức Giê su trong các cử hành phụng vụ, gặp gỡ Ngài nơi tha nhân – nhất là những người cùng khổ. Đừng chờ Chúa đến thăm nhà mình và hiện ra với mình, nhưng hãy đón tiếp nhau – mỉm cười với nhau – cảm thông với sự yếu đuối của nhau, hãy ra khỏi nhà và rời khỏi cell phone để thăm một người bệnh hoặc một người già yếu, dù chẳng thú vị gì - nhưng đó là cơ hội để gặp Đấng Phục Sinh. Mỗi cuộc gặp gỡ, người Ki tô hữu hãy nói với nhau rằng: Sự sống đã chiến thắng sự chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù, mỗi người là anh em của nhau vì có chung một Cha trên trời, và chúng ta sẽ cùng chung sống với nhau trên thiên đàng.
Lời nguyện của ngày lễ Phục Sinh rất đáng ta thuộc lòng: Xin Cha ban Thánh Thần, làm cho chúng con trở nên người mới, để sống một cuộc đời mới tràn ngập ánh sáng Đấng Phục Sinh. Ánh sáng dẫn đường tâm linh, ánh sáng sưởi ấm cõi lòng. Chúa Đã Phục Sinh, đó là niềm vui của chúng ta. Ngay từ giây phút đầu tiên của sự kiện Chúa Phục sinh, đã xuất hiện tin giả rằng xác Chúa bị đánh cắp, bởi vì người ta không tin được là một kẻ đã chết nay có thể sống lại – và thế gian không muốn đón nhận một chiến thắng của Đấng mà họ đã giết chết cho bằng được. Ma quỷ vẫn không ngừng gieo rắc sự nghi ngờ trong từng tâm hồn và trên khắp thế gian này, chúng lôi kéo tâm trí ta bận tâm đến những điều phù phiếm và tạm bợ để không sao lãng niềm vui CHÚA ĐÃ PHỤC SINH, ALLELUIA, ALLELUIA.