Giáo xứ Vinh Hương

Ngày của cha

Thứ sáu - 15/06/2012 19:37

Ngày của cha

- Một lòng thờ Mẹ, kính Cha, Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con

 
Ngày Của Cha là một lễ được dùng để tôn vinh những người làm cha, tôn vinh cương vị làm cha, mối quan hệ với người cha và ảnh hưởng của người cha trong xã hội. Ngày này được ăn mừng vào Chủ nhật thứ ba của tháng 6 tại nhiều quốc gia và có thể rơi vào những ngày khác ở một số nơi. Ngày này bổ sung cho Ngày của Mẹ - lễ tôn vinh các bà mẹ.
 
Lịch sử
 
Ngày Của Cha được ăn mừng phổ biến từ những năm đầu thế kỷ 20 để bổ sung cho Ngày của Mẹ trong những ngày lễ tôn vinh những bậc làm cha mẹ . Ngày của Cha được cử hành vào nhiều ngày khác nhau trên toàn thế giới và thường liên quan đến việc tặng quà, bữa ăn tối đặc biệt cho cha, mẹ, và các hoạt động mang tính gia đình.
 
Nhưng việc ăn mừng Ngày của Cha sớm nhất được biết đến đã diễn ra ở Fairmont, Tây Virginia vào ngày 5 tháng 7 năm 1908. Sự kiện được bà Grace Golden Clayton tổ chức, với mong muốn vinh danh cuộc đời của 210 người cha bị mất vài tháng trước trong Thảm họa Monongah Mining ở Monongah, Tây Virginia, vào ngày 06 tháng 12 năm 1907. Có thể Clayton chịu ảnh hưởng bởi việc ăn mừng Ngày của Mẹ lần đầu tiên trong năm đó, và chỉ cách đó một vài dặm. Clayton đã chọn ngày Chủ nhật gần nhất so với ngày sinh của người cha vừa mới qua đời của bà.
 
Tuy nhiên, sự kiện đó bị lu mờ bởi các sự kiện khác trong thành phố. Tây Virginia không chính thức công nhận ngày lễ này, và nó không được tổ chức trở lại. Tất cả công lao trong việc giúp Ngày của Cha ra đời về sau lại được ghi nhận cho Sonora Dodd người Spokane, đã tổ chức Ngày của Cha một cách độc lập vào 2 năm sau đó. Sự kiện của bà cũng chịu ảnh hưởng từ Ngày của Mẹ.
 
lễ kỷ niệm của bà Clayton đã bị lãng quên cho đến năm 1972, khi một trong những người tham dự để buổi lễ do bà tổ chức nhìn thấy Tổng thống Mỹ Ric-hard Nixon công bố Ngày của Cha, và làm việc để phục hồi di sản của nó. Ngày lễ này hiện được tổ chức hàng năm nhà thờ chính tòa Methodist - tức nhà thờ Williams Memorial Methodist Episcopal. Fairmont nay được đề cử là "Quê hương Ngày của Cha đầu tiên".
 
Một dự luật công nhận Ngày của Cha là ngày lễ quốc gia được đưa lên Quốc hội Mỹ vào năm 1913. Năm 1916, Tổng thống Woodrow Wilson đến Spokane để nói chuyện trong lễ kỷ niệm Ngày của Cha và muốn công nhận nó chính thức, nhưng Quốc hội phản đối, vì sợ rằng nó sẽ bị Thương mại hóa. Tổng thống Mỹ Calvin Coolidge đề nghị vào năm 1924 rằng nên đưa Ngày của Cha vào diện ngày được quan sát bởi quốc gia, nhưng chưa phát hành một công bố quốc gia.
 
Năm 1957, Thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết một kiến nghị buộc tội Quốc hội đã bỏ phớt lờ Ngày của Cha suốt 40 năm, trong khi tôn vinh các bà mẹ, do đó "chỉ tôn vinh 1 trong 2 phụ huynh của chúng ta". Năm 1966, Tổng thống Lyndon B. Johnson đã đưa ra lời loan báo tổng thống đầu tiên tôn vinh những người cha, và chỉ định dành ngày Chủ nhật thứ ba trong tháng 6 làm Ngày của Cha.
 
Sáu năm sau, ngày này đã được chính thức trở thành ngày nghỉ lễ trên toàn quốc ở Mỹ sau khi Tổng thống Ric-hard Nixon ký nó thành luật vào năm 1972. Ngoài Ngày của Cha, còn có Ngày Quốc tế Đàn ông được tổ chức tại nhiều quốc gia vào ngày 19 tháng 11 để dành cho những người đàn ông con trai không phải là cha.
 
Ngày của Cha ở các nước
 
Việt Nam:
Ngày của Cha được tổ chức vào Chủ nhật thứ ba của tháng Sáu.
 
Thái Lan:
Tại Thái Lan, Ngày của Cha được thiết lập như ngày sinh nhật của nhà vua. ngày 05 tháng 12 là ngày sinh của vua hiện tại, Bhumibol Adulyadej (Rama IX). Theo truyền thống, người Thái ăn mừng bằng cách cho cha hay ông nội của họ một hoa Canna (ดอก พุทธรักษา), được coi là một bông hoa nam tính, tuy nhiên, đây không phải là điều thường được thực hiện ngày hôm nay. Người Thái sẽ mặc màu vàng vào ngày này để tôn trọng nhà vua, bởi vì màu vàng là màu của ngày Thứ Hai, ngày vua Bhumibol Adulyadej ra đời. Năm 2007, vua Bhumibol Adulyadej được nhìn thấy rời khỏi bệnh viện trong trang phục một áo em bé màu hồng (?). Vì vậy, ngày nay người Thái mặc màu hồng thay vì màu vàng.
 
Những nơi có ăn mừng Ngày của Cha còn có: thế giới Arab, Argentina, Úc, Brazil, Canada, Costa Rica, Đan Mạch, Đức, Hồng Kông, Ireland, Pakistan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Seychelles, Nepal, New Zealand, Philippines, Romania, Singapore, Tây Ban Nha, Đài Loan, Vương quốc Anh, Mỹ...
 
Ngoài ra Ngày của Cha còn được nhắc đến trong văn hóa Thiên Chúa giáo, với việc ăn mừng chung với ngày lễ Thánh Giuse.
 
Ngày Vinh Danh Bố (Father’s Day)
http://yume.vn
 
Hàng năm tại Hoa Kỳ có ngày Lễ dành cho Mẹ (Mother’s Day) vào chủ nhật tuần thứ 2 của tháng Năm và ngày Lễ dành cho Bố (Father’s Day) vào chủ nhật tuần thứ 3  tháng Sáu hàng năm. Nói về lịch sử ngày Lễ Father’s Day, một trong những người dầu tiên có sáng kiến để cử hành ngày Lễ dành cho Bố, đó là bà Sonora Louis Smart Dodd ở tiểu bang Washington. Bà đã suy nghĩ về ngày Lễ dành cho Bố, lúc bà ngồi lắng nghe lời giảng trong một buổi Lễ dành cho Mẹ vào năm 1909. Bà Sonora muốn có một ngày đặc biệt dành cho Bố mình, đó là ông William Jackson Smarth, ông là cựu chiến binh của cuộc nội chiến (Civil War), vợ của ông Smarth đã mất trong lúc bà lâm bồn hạ sanh người con thứ sáu của họ. Một mình đơn độc, ông Smarth đã nuôi đứa trẻ sơ sinh và năm người con của ông ở một trang trại hoang vu thuộc miền đông, tiểu bang Washington. Khi bà Sonora trưởng thành, bà cảm nhận sâu xa ơn hy sinh tận tụy một đời của Bố đã nuôi dưỡng một đàn con đơn thân, độc mã. Dưới mắt bà, người Bố là một tấm gương can đảm, vô vị kỷ và tràn đầy tình yêu thương. Vì thân phụ của bà Sonora sanh vào tháng Sáu, nên bà đã chọn ngày 19 tháng 6 năm 1910, để cử hành ngày Lễ dành cho Bố đầu tiên tại thành phố Spokane, thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ.
 
Thực ra, trước bà Sonora đã có ý kiến dành một ngày vinh danh cho những người Bố. Người ta cho rằng Tiến sĩ Robert Webb là người cử hành Lễ dành cho Bố đầu tiên tại Thánh Đường Trung Ương thuộc thành phố Fairmont, tiểu bang West Virginia, Hoa Kỳ, vào năm 1908. Nhưng chính nhờ vào những nỗ lực của bà Sonora, dần dần ngày Lễ dành cho Bố đã được công nhận trên toàn quốc Hoa Kỳ. Đến năm 1924, Tổng thống Calvin Coolidge, ủng hộ ý kiến công nhận một ngày Lễ dành cho Bố trên toàn quốc.  Sau đó đến năm 1966, Tổng thống Lynden Johnson đã ký một sắc lệnh tuyên bố công nhận ngày Chúa Nhật thứ ba, trong tháng Sáu hằng năm là ngày Lễ dành cho Bố, tức là Father’s Day!Ngay từ lúc đầu tiên, bà Sonora Dodd là người có sáng kiến dành cho những ai còn Bố được tặng bông hồng đỏ và những ai không còn Bố được tặng bông hồng trắng trong ngày Lễ Father’s Day, tập tục này vẫn lưu truyền đến ngày nay. (Có lẽ Thiền sư Nhất Hạnh đã sưu tầm được mẩu truyện này và lấy ý làm nên bài thơ “Bông Hồng Cài Áo” được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ).
 
Đó là lịch sử ngày Lễ Father’s Day tại Hoa Kỳ. Thế còn vai trò người Bố trong gia đình Việt Nam chúng ta thì sao? Ngày xưa trong Gia Huấn, nước chúng ta chịu ảnh hưởng bởi nước Tàu, do đó, ở một quốc gia quyền hành nằm trong tay nhà Vua, người lãnh đạo, trong gia đình, quyền hành tập trung vào người đàn ông, gia trưởng. Hệ thống trong xã hội Việt Nam xưa theo thứ tự: Quân, Sư, Phụ (Vua, Thầy, Bố). Vua và Bố có quyền xử tội chết! “Vua xử: Thần tử. Phụ xử: Tử vong”.  Có nghĩa là Vua xử tội: Tôi - Thần phải chết, Cha xử tội: con cũng phải chết. Thần không chết, con không chết khi bị xử tội sẽ là bất trung và bất hiếu. Điều này cho thấy, quyền hành của một vị Vua trong một quốc gia cũng tương tự như quyền hành của một người Bố trong gia đình. 
 
Gia Huấn ngày xưa cũng thường đề cập tới lòng hiếu thảo như truyện “Nhị Thập Tứ Hiếu” (gương của hai mươi bốn người con hiếu thảo), đây là những bài học gia huấn có giá trị, đã tồn tại trong gia đình và học đường nước Việt Nam rất từ lâu, dù rằng đây là hai mươi bốn tấm gương hiếu thảo của truyện nước Tàu. Những truyện này đã được một học giả sống vào thời nhà Nguyên, đó là ông Quách Cư Nghiệp, viết kể bằng chữ Hán. Sau đó, một công thần nước Việt Nam, thời nhà Nguyễn; ông Lý Văn Phức, (đã trải qua ba triều Vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức), đã diễn ra bằng Quốc Âm thành một truyện thơ viết theo thể song thất lục bát, rất phổ biến trong dân gian. Thí dụ như truyện của Hoàng Hương là người Đông Hán. Hoàng Hương mất Mẹ lúc lên chín tuổi. Hoàng-Hương được người trong làng khen là một người con vô cùng hiếu thảo. Hoàng Hương thờ Bố rất mực cung kính, sớm khuya hầu hạ, không dám xao lãng. Vào mùa Đông, Hoàng Hương nằm ủ vào chăn chiếu của Bố mình, để truyền hơi ấm cho Bố khỏi rét lạnh. Đến mùa Hè quạt màn gối của Bố cho mát mẻ. Nhờ đó mà Bố của Hoàng Hương được ăn ngon, ngủ yên. Quanh năm vui vẻ, không biết có mùa Đông hay mùa Hè. Quan Thái thú ở quận sở tại, nhân thấy họ Hoàng là người con hiếu thảo, bèn làm sớ tâu lên Vua nhà Hán ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng đề chữ là: “Người Con Hiếu Thảo”. Nguyên văn của bản chữ Hán như sau:
 
“Đông nhật ôn khâm noãn,
Viêm thiên phiến chẩm hương,
Nhi đồng tri tử chức.
Thiên cổ nhất Hoàng Hương”
 
Dịch nghĩa là:
 
Mùa Đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối,
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Ngàn năm chỉ có một Hoàng Hương”.
 
Và được diễn Quốc Âm như sau:
 
“Đời Đông Hán, Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dõi dõi nhớ thương,
Hạt châu khôn ráo hai hàng,
Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen,
Thờ Nghiêm Phụ cần chuyên khuya sớm,
Đạo làm con chẳng dám chút khuây,
Trời khi nắng Hạ chầy chầy.
Quạt cho màn gối hơi bay mát rầm,
Trời Đông buổi sương đầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn,
Nhờ con Cha được yên thân,
Bốn mùa không biết có phần Hạ, Đông,
Tiếng Hiếu Hạnh cảm lòng Quận Thú,
Biển nên treo chói đỏ vàng son,
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người?”
 
Ngoài ra trong “Nhị Thập tứ Hiếu” còn có những gương hiếu thảo như của: Văn Đế, Tăng Tử, Mẫn Tử Khiên, Tử Lộ, Diễm Tử, Lão Lai Tử, Thái Thuận, Giang Cách, Vương Thôi, Ngô Mãnh, Dương Hương, Châu Thọ Xương, Hoàng Đình Kiên v.v…
 
Trong khi đó, lịch sử của đời sống người Việt có rất nhiều gương hiếu thảo, thí dụ như ông Nguyễn Trãi, người đã làm quân sư, viết bài: “Bình Ngô Đại Cáo” sau khi giúp cho Vua Lê Lợi đánh thắng được quân xâm lược nhà Minh ở phương Bắc tràn xuống nước ta. Khi Bình Định Vương Lê Lợi về đánh ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi vào yết kiến và dâng bài sách, Vua xem khen hay và dùng Nguyễn Trãi làm tham mưu cho Vua. Ông Nguyễn Trãi là con của ông bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, (thuộc đời nhà Hồ). Ông thi đỗ Tiến sĩ vào năm 1400. Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị quan quân nhà Minh bắt dẫn về Kim Lăng, Nguyễn Trãi chạy theo khóc lóc, lên đến cửa Nam Quan, Nguyễn Trãi không chịu trở lại. Ông Nguyễn Phi Khanh đã nói rằng:
 
“Con! Con phải trở về mà lo báo hiếu cho Cha, rửa hận cho nước. Chứ đi theo khóc lóc làm gì!!!”
 
Khi ấy, nghe lời Bố, Nguyễn Trãi trở lại, ngày đêm lo việc nước, giúp Bình Định Vương, bày mưu kế để đánh giặc ngoại xâm.
 
Một gương hiếu thảo nữa cần nhắc đến đó là ông Đồ Chiểu. Đang khi ra kinh thành ứng thí, giữa đường nghe tin thân mẫu ông qua đời tại quê nhà, ông Nguyễn Đình Chiểu phải quay về thọ tang, đành bỏ kỳ thi, vì thương Mẹ, ông khóc đến mù mắt. Câu truyện này chúng ta biết được qua tác phẩm Lục Vân Tiên mà tác giả chính là Cụ Đồ Chiểu.
 
Trong cuốn sách “Đất lề quê thói”, nhà văn Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu đã nhận định về đạo hiếu là lửa thiêng, hun đúc tinh thần gia tộc: Hiếu đầu trăm nết:
 
“Chữ Hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thời suy ra trăm nết đều nên”
 
(Theo diễn âm của ông Lý Văn Phức, 1785-1894, Nhị Thập Tứ Hiếu)
 
Xét cho cùng, kẻ bất hiếu, tức là không đối xử tốt với Bố Mẹ, chắc hẳn sẽ không thể nào đối xử tốt với người khác.
 
Tất cả con người chúng ta đều được tạo thành từ giọt máu Cha và được cưu mang từ bụng Mẹ, người xưa có câu: “Ẩm Hà, Tư Nguyên”. Có nghĩa là: “Uống Nước, Nhớ Nguồn”.
 
“Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ Mẹ, kính Cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”
 
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 Tags: n/a

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây